Thứ Sáu, 13 tháng 9, 2013
ĐỨC TÁNH
NÊN CÓ CỦA NGƯỜI CƯ SĨ
Thero ‘‘sādhū’’ti sampaṭicchitvā dasa upāsakassa upāsakaguṇe
paridīpesi. ‘‘Dasa ime, mahārāja, upāsakassa upāsakaguṇā. Katame dasa , idha, mahārāja,
upāsako saṅghena samānasukhadukkho hoti, dhammādhipateyyo hoti, yathābalaṃ saṃvibhāgarato
hoti, jinasāsanaparihāniṃ disvā abhivaḍḍhiyā vāyamati. Sammādiṭṭhiko hoti,
apagatakotūhalamaṅgaliko jīvitahetupi na aññaṃ satthāraṃ uddisati, kāyikavācasikañcassa
rakkhitaṃ hoti, samaggārāmo hoti samaggarato, anusūyako hoti, na ca
kuhanavasena sāsane
carati, buddhaṃ saraṇaṃ gato hoti, dhammaṃ saraṇaṃ gato hoti, saṅghaṃ saraṇaṃ
gato hoti. Ime kho, mahārāja, dasa upāsakassa upāsakaguṇā, te sabbe guṇā tayi
saṃvijjanti, taṃ te yuttaṃ pattaṃ anucchavikaṃ patirūpaṃ yaṃ tvaṃ
jinasāsanaparihāniṃ disvā abhivaḍḍhiṃ icchasi, karomi te okāsaṃ, puccha maṃ tvaṃ
yathāsukha’’nti.
Vị trưởng
lão đã chấp thuận rằng: “Tốt lắm,” rồi đã làm sáng tỏ về mười đức tính cư sĩ dành
cho người cư sĩ.
“Tâu đại
vương, mười đức tính cư sĩ này là dành cho người cư sĩ. Là mười đức tính gì?
Tâu đại vương, ở đây người cư sĩ:
là cùng
vui cùng khổ với hội chúng,
có Pháp là
chủ,
yêu thích
việc san sẻ tùy theo khả năng,
sau khi
nhìn thấy sự suy đồi ở Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng thì nỗ lực cho sự phát
triển,
là người
có chánh kiến, xa rời lễ hội náo nhiệt, không tuyên bố theo giáo chủ khác thậm
chí vì nguyên nhân mạng sống,
thân và khẩu
của người này được gìn giữ,
có sự vui
thích trong sự hợp nhất, ưa thích sự hợp nhất, là người không ganh tỵ, và không
thực hành giáo pháp theo cách dối trá,
đã đi đến
nương nhờ vào đức Phật,
đã đi đến
nương nhờ vào Giáo Pháp,
đã đi đến
nương nhờ vào Hội Chúng.
Tâu đại
vương, mười đức tính cư sĩ này là dành cho người cư sĩ.
Tất cả mười
đức tính ấy được tìm thấy ở đại vương. Điều ấy được gắn bó, được đạt đến, là
thích đáng, là phù hợp đối với đại vương là việc sau khi nhìn thấy sự suy đồi ở
Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng thì đại vương mong muốn sự phát triển. Tôi cho
phép đại vương. Đại vương hãy hỏi tôi một cách thoải mái.”