Thứ Tư, 11 tháng 9, 2013
Căn cơ người
đối thoại (tiep theo)
‘‘Bhante nāgasena, navime puggalā mantitaṃ guyhaṃ vivaranti na
dhārenti. Katame nava? Rāgacarito dosacarito mohacarito bhīruko āmisagaruko itthī soṇḍo paṇḍako
dārako’’ti.
Thero āha ‘‘tesaṃ ko doso’’ti? ‘‘Rāgacarito, bhante nāgasena,
rāgavasena mantitaṃ guyhaṃ vivarati na dhāreti, dosacarito, bhante , dosavasena
mantitaṃ guyhaṃ vivarati na dhāreti, mūḷho mohavasena mantitaṃ guyhaṃ vivarati
na dhāreti,
bhīruko bhayavasena mantitaṃ guyhaṃ vivarati na dhāreti, āmisagaruko āmisahetu
mantitaṃ guyhaṃ vivarati na dhāreti, itthī paññāya ittaratāya mantitaṃ guyhaṃ
vivarati na dhāreti, soṇḍiko surālolatāya mantitaṃ guyhaṃ vivarati na dhāreti,
paṇḍako anekaṃsikatāya mantitaṃ guyhaṃ vivarati na dhāreti, dārako capalatāya
mantitaṃ guyhaṃ vivarati na dhāreti. Bhavatīha –
‘‘‘Ratto duṭṭho ca mūḷho ca, bhīru āmisagaruko [āmisacakkhuko
(sī. pī.)];
Itthī soṇḍo paṇḍako ca, navamo bhavati dārako.
‘‘Navete puggalā loke, ittarā calitā calā;
Etehi mantitaṃ guyhaṃ, khippaṃ bhavati pākaṭa’’’nti.
6. “Thưa
ngài Nāgasena, chín hạng người này bộc lộ, không gìn giữ điều bí mật đã được thảo
luận. Là chín hạng nào? Hạng có tánh ái luyến, hạng có tánh sân, hạng có tánh
si, hạng hèn nhát, hạng nặng về vật chất, phụ nữ, hạng nghiện ngập, hạng vô
căn, trẻ con.”
Vị trưởng
lão đã nói rằng: “Những người ấy có sự sai trái gì?”
“Thưa ngài
Nāgasena, hạng có tánh ái luyến bộc lộ, không gìn giữ điều bí mật đã được thảo
luận do tác động của sự ái luyến.
Hạng sân hận
bộc lộ, không gìn giữ điều bí mật đã được thảo luận do tác động của sân.
Hạng si mê
bộc lộ, không gìn giữ điều bí mật đã được thảo luận do tác động của si.
Hạng hèn
nhát bộc lộ, không gìn giữ điều bí mật đã được thảo luận do tác động của sự sợ
hãi.
Hạng nặng
về vật chất bộc lộ, không gìn giữ điều bí mật đã được thảo luận vì lý do vật chất.
Phụ nữ bộc
lộ, không gìn giữ điều bí mật đã được thảo luận do tánh hay thay đổi.
Hạng nghiện
ngập bộc lộ, không gìn giữ điều bí mật đã được thảo luận do tánh thèm rượu.
Hạng vô
căn bộc lộ, không gìn giữ điều bí mật đã được thảo luận do tánh không kiên quyết.
Trẻ con bộc
lộ, không gìn giữ điều bí mật đã được thảo luận do tánh lao chao.
Vậy ở đây
là:
Hạng bị ái
luyến, sân hận, si mê, hèn nhát, xem trọng vật chất, phụ nữ, kẻ nghiện ngập, vô
căn, và thứ chín là trẻ nít.
Chín hạng
người này ở trên đời là hay thay đổi, bị dao động, chao đảo, vì những người này
điều bí mật đã được thảo luận mau chóng trở thành phổ biến.”
‘‘Bhante nāgasena, aṭṭhahi kāraṇehi buddhi pariṇamati paripākaṃ
gacchati. Katamehi aṭṭhahi? Vayapariṇāmena buddhi pariṇamati paripākaṃ
gacchati, yasapariṇāmena buddhi pariṇamati paripākaṃ gacchati, paripucchāya
buddhi pariṇamati paripākaṃ gacchati, titthasaṃvāsena buddhi pariṇamati
paripākaṃ gacchati, yoniso manasikārena buddhi pariṇamati paripākaṃ gacchati,
sākacchāya buddhi pariṇamati paripākaṃ gacchati, snehūpasevanena buddhi pariṇamati
paripākaṃ gacchati, patirūpadesavāsena buddhi pariṇamati paripākaṃ gacchati.
Bhavatīha –
Sākacchā snehasaṃsevā, patirūpavasena ca.
‘‘Etāni aṭṭha ṭhānāni, buddhivisadakāraṇā;
Yesaṃ etāni sambhonti, tesaṃ buddhi pabhijjatī’’’ti.
8. “Thưa
ngài Nāgasena, tánh giác tiến triển, đi đến chín muồi do tám lý do. Do tám lý
do gì?
Do sự tiến
triển của tuổi tác, tánh giác tiến triển, đi đến chín muồi.
Do sự tiến
triển của danh tiếng, tánh giác tiến triển, đi đến chín muồi.
Do học hỏi,
tánh giác tiến triển, đi đến chín muồi.
Do sự sống
gần gũi với vị lãnh đạo tinh thần, tánh giác tiến triển, đi đến chín muồi.
Do sự chú
tâm đúng đắn, tánh giác tiến triển, đi đến chín muồi.
Do sự bàn
luận, tánh giác tiến triển, đi đến chín muồi.
Do sự phục
vụ với lòng thương, tánh giác tiến triển, đi đến chín muồi.
Do sống ở
xứ sở thích hợp, tánh giác tiến triển, đi đến chín muồi.
Vậy ở đây
là:
Do tuổi
tác, danh tiếng, học hỏi, do sống với vị lãnh đạo tinh thần, (chú tâm) đúng đắn,
do bàn luận, do sự phục vụ với lòng thương, và do sống ở xứ sở thích hợp.
Tám sự việc
này làm cho tánh giác được rõ ràng. Những người nào có các điều này được hiện hữu
thì tánh giác của họ được đánh thức.”