Thứ Tư, 31 tháng 8, 2011

Vu Lan 2011











Xin xem tiếp

Thứ Năm, 18 tháng 8, 2011

II.19. CHÍN KHUYẾT ĐIỂM CỦA CƯ SĨ KHIẾN TĂNG KHÔNG ĐẾN NHÀ

Đức vua Pasenadi xứ Kosala thỉnh mời 500 vị tỳ kheo đến hoàng cung để nhà vua cúng dường trong bảy ngày. Vài ngày đầu đức vua sốt sắng đón tiếp chư Tăng nhưng các ngày sau thì vua lãng quên phận sự, các cận thần của vua cũng không quan tâm. Chư tỳ kheo nhận thấy tình trạng đó nên đã không đến hoàng cung nữa, chỉ có mỗi một mình tôn giả Ānanda là kiên nhẫn hiện diện đến ngày cuối. Khi vua Pase-nadi chợt nhớ đến phận sự cúng dường chư tăng, nhà vua thân giá đến cung tiếp tân thì chỉ thấy có một vị là tôn giả Ānanda, nhà vua bực tức nghĩ rằng các tỳ kheo không vị nể ta. Hôm sau, vua đi đến Đức Phật và than phiền về việc ấy. Đức Phật đã nói rõ cho nhà vua biết đó không phải là lỗi của các đệ tử Ngài, chỉ vì thái độ đối xử tắc trách của vua nên chư tỳ kheo vì lòng tự trọng mà không đến nữa.

Sau đó Đức Phật đã nêu rõ cho vua Pasenadi biết, có chín khuyết điểm của người cư sĩ mà nếu muốn, các tỳ kheo không cần phải đến nhà:

1- Không đón tiếp vui vẻ (Na manāpena paccuṭṭhenti).
2- Không đảnh lễ vui vẻ (Na manāpena abhivā denti).
3- Không vui vẻ mời ngồi (Na manāpena āsanaṃ denti).
4- Có của cải thì giấu giếm (Santamassa parigūhanti).
5- Có nhiều cho ít (Bahukamhi thokaṃ denti).
6- Có ngon cho dở (Paṇītamhi lukhaṃ denti).
7- Cho với cách bất kính (Asakkaccaṃ denti).
8- Không ngồi lại để nghe pháp (Na upanisīdanti dhammassavanāya).
9- Không hoan hỷ tiếp chuyện (Bhāsitamassa na ramissanti). -- A. IV.387

II.20. SÁU CỬA SUY VONG CHO NGƯỜI CƯ SĨ, SÁU NGÕ ĐI DẪN ĐẾN THIỆT TÀI SẢN VÀ BỊ KHỔ LỤY

Đức Phật đã thuyết điều này cho gia chủ tử Siṅgālaka nghe. Gia chủ tử Siṅgālaka là người theo hạnh lễ bái lục phương theo truyền thống của cha. Khi gặp Đức Phật, gia chủ tử này đã yêu cầu Đức Phật giảng cho nghe hình thức lễ bái lục phương theo pháp bậc thánh.

Trước hết, Đức Phật giảng về sáu cửa suy vong mà người cư sĩ phải tránh:

1- Say sưa rượu chè (Surāmerayamajjapamā daṭṭhānānuyogo), người sống say sưa có sáu điều nguy là tài sản bị tiêu hao, gây ra sự tranh cãi, phát sanh nhiều bệnh tật, tự đánh mất danh dự, thân lõa lồ trâng tráo, làm suy giảm trí tuệ.

2- Du hành đường phố phi thời (Vikālavisikhā cariyānuyogo), người đi chơi đêm có sáu điều nguy là không giữ được mình, không giữ được vợ con, không giữ được tài sản, dễ bị tình nghi, thành nạn nhân tin đồn, chuốc lấy ưu phiền.

3- La cà chỗ hí trường (Samajjhābhicaraṇaṃ), người thường lui tới chỗ vui chơi có năm điều nguy là công việc bị đình trệ, thối thất sự siêng năng, lãng phí nhiều thời gian, làm tốn hao tiền bạc, bận tâm tìm nhạc hội.

4- Đam mê cờ bạc (Jūtappamādaṭṭhānānuyogo), người cờ bạc có sáu điều nguy là thắng sinh ra thù oán, thua lỗ bị khổ đau, tài sản bị tổn thất, lời nói không hiệu lực, bạn bằng hữu khinh rẻ, không ai dám cưới gả.

5- Giao du ác hữu (Pāpamittānuyogo), người chơi với bạn xấu có sáu điều nguy là ảnh hưởng thói cờ bạc, ảnh hưởng thói đàng điếm, ảnh hưởng thói rượu chè, ảnh hưởng thói gian xảo, ảnh hưởng thói lường gạt, ảnh hưởng thói côn đồ.

6- Sống biếng nhác (Àlassànuyogo), người có tật lười biếng sẽ thối thác, không làm việc, viện lý do lạnh quá, nóng quá, sớm quá, trễ quá, đói quá, no quá. Do vậy, người ấy không thu hoạch được tài sản chưa có, sẽ cạn kiệt tài sản đã có. -- D. III.182.184.

II.18. TÁM LỖI LẦM CỦA CƯ SĨ KHIẾN TĂNG CHÚNG ÚP BÁT, KHÔNG NHẬN SỰ CÚNG DƯỜNG

Đức Phật dạy rằng:

"Này chư tỳ kheo, với người cư sĩ có một trong tám lỗi này, Tăng chúng có thể úp bát đối với người ấy, nếu muốn".

1- Cố tình làm cho chư tỳ kheo mất lợi lộc (Bhikkhūnaṃ alābhāya parisakkati), như là ngăn chặn người khác cúng dường các tỳ kheo v.v...

2- Cố tình gây bất lợi cho chư tỳ kheo (Bhik-khūnaṃ anatthāya parisakkati), như là làm cho các tỳ kheo bị xáo trộn, lo sợ mà không tu tập được.

3- Cố tình làm cho chư tỳ kheo không chỗ ở (Bhikkhūnaṃ anāvāsāya parisakkati), như là đập phá tịnh thất của chư tỳ kheo, hoặc đuổi các tỳ kheo đi khỏi chùa mà họ có quyền hạn.

4- Mắng chửi nhiếc móc các tỳ kheo (Bhikkhū akkosati paribhāsati), như nói với tỳ kheo bằng lời khiếm nhã do sân tâm.

5- Chia rẽ tỳ kheo với tỳ kheo (Bhikkhū Bhikkhūhi vibhedeti), như là nói ly gián giữa các tỳ kheo, tạo sự bất hòa giữa các tỳ kheo, làm cho các tỳ kheo không hòa hợp.

6- Phỉ báng Phật (Buddhassa avaṇṇaṃ bhāsati), như là nói lời phạm thượng, nói xuyên tạc, nói lời bất kính với Đức Phật.

7- Phỉ báng pháp (Dhammassa avaṇṇaṃ bhāsati), nói lời công kích, xuyên tạc, bất kính với giáo pháp.

8- Phỉ báng Tăng (Saṅghassa avaṇṇaṃ bhāsati), nói mạ lỵ, xuyên tạc, bất kính đối với Tăng chúng. -- A.IV.344

Thứ Hai, 15 tháng 8, 2011

BẢY PHÁP BẤT THỐI CỦA NGƯỜI CƯ SĨ

Đức Phật đã thuyết pháp này cho các tỳ kheo nghe:

"Này các tỳ kheo, có bảy pháp này khiến người cư sĩ không thối đọa (Aparihāniya)". Bảy pháp ấy là:

1- Không quên thăm viếng các tỳ kheo (Bhikkhudassanaṃ na hāpeti).

2- Không dể duôi việc nghe diệu pháp (Saddhammassavanaṃ nappamajjati).

3- Tu tập Tăng thượng giới (Adhisīle sikkhati), là giữ giới luật cư sĩ chính chắn.

4- Giàu niềm tin đối với các tỳ kheo trưởng lão, tỳ kheo trung niên, tỳ kheo tân nhập (Pasādabahulo hoti bhikkhūsu theresu ceva navesu ca majjhimesu ca).

5- Không có tâm vấn nạn, không tìm khuyết điểm khi nghe pháp (Anupārambhacitto dhammaṃ suṇāti na randhagavesī).

6- Không tìm người đáng cúng dường ngoài Tăng chúng (Na ito bahiddhā dakkhiṇeyyaṃ gavesati).

7- Ưu tiên cho Tăng chúng (Idha ca pubbakāraṃ karoti), nghĩa là bố thí cúng dường cho các tỳ kheo trước, sau mới bố thí cho các ngoại đạo nếu cần giúp đỡ (Ā. Sattanipāta). -- A. IV.25, 26



Lá Thư Mùa Vu Lan





Mùa lễ nào cũng viết thư mời quí Phật tử xa gần với hình thức một thông báo. Năm nay đặc biệt viết như một bức thư bởi vì có nhiều việc cần nói. Tự nhiên khi viết những giòng chữ nầy chợt nhớ tới một kỷ niệm thời ở trại tị nạn Pulau Bidong. Lúc ấy là Rằm Tháng Chạp cùng hai vị thầy bạn lên núi hái hoa trang về cúng Phật. Tiện đường băng ngang khu G tới bãi biển bên kia đồi. Đang ngâm chân dưới nước biển trong mát chợt nghe vị thầy bạn hỏi: Sư cảm nhận thế nào về biển. Bất chợt không biết trả lời thế nào tôi đành cười trừ. Vị thầy ấy lại tiếp tục: Tôi chỉ cảm nhận được biển khi đứng dưới nước nghe từng cơn sóng đập vào chân. Đâu có chổ nào khác ngoài biển cả mà từng cơn sóng ập vào liên hồi bất tận như vậy. Một lần nữa tôi lại cười. Câu hỏi đã bất ngờ mà câu nói sau đó nghe cũng lạ.

Sáu tháng qua tôi cũng mang một cảm giác như vậy về việc xây cất chùa. Trước Rằm tháng Giêng năm nay tôi không hề nghĩ là sáu tháng sau, vào lễ Vu Lan nầy, việc chỉnh trang chùa Pháp Luân hoàn tất. Khởi đầu là tiền sảnh, rồi chánh điện, hội trường, tháp thờ cốt, Phật đài lộ thiên, cổng tam quan. Chỉ việc thiết kế họa đồ có thể mất chừng đó thời gian đừng nói chuyện xây cất, vận động gây quỹ. Chúng ta sẽ nói thêm về chuyện nầy sau, bây giờ hãy nói về đại lễ Vu Lan.....Xin xem thêm chi tiết






Kiên thiết chùa Pháp Luân giai đoạn IV



.Xin xem thêm chi tiết

Chủ Nhật, 14 tháng 8, 2011

II.15. MƯỜI PHƯỚC NGHIỆP SỰ

Đức Phật đã giảng về phước nghiệp sự (Puññakiriyavatthu), lã những cơ sở để tạo phước vật, phước đức và phước trí nhưng Ngài chỉ dạy căn bản có ba điều là cơ sở bố thí (dānamaya), cơ sở trì giới (sīlamaya) và cơ sở tu tiến (bhāvanāya) - D.III.218; A.IV.239; It.51.

Trong các bộ chú giải đã giải thích rộng thành mười điều tạo phước, thập hạnh phúc, đó là:

1- Bố thí (Dānamagga), là tạo phước bằng cách bố thí xả tài.

2- Trì giới (Sīlamaya), là tạo phước, bằng cách giữ giới, thọ trì những giới cấm.

3- Tu tiến (Bhāvanāmaya), là tạo phước bằng cách tu tập thiền định, chỉ và quán.

4- Cung kính (Apacāyanamaya), là tạo phước bằng cách kính lễ bậc trưởng thượng.

5- Phục vụ (Veyyāvaccamaya), là tạo phước bằng cách làm lợi ích cho người khác với công sức của mình.

6- Hồi hướng (Pattidānamaya), là tạo phước bằng cách hướng nguyện công đức đã làm, để tạo điều kiện cho người khác sanh tâm thiện.

7- Tùy hỷ (Pattānumodanāmaya), là tạo phước bằng cách vui thích theo công đức của người khác đã làm.

8- Thính pháp (Dhammassavanamaya), là tạo phước bằng cách nghe pháp của Đức Phật thuyết, hay các đệ tử của Ngài thuyết, thậm chí là nghe những bậc thiện trí dạy bảo.

9- Thuyết pháp (Dhammadesanāmaya), là tạo phước bằng cách nói pháp chân chánh cho người khác nghe, thậm chí chỉ là bàn luận Phật pháp, hoặc nói những lời hay lẽ phải.

10- Cải chánh kiến thức (Diṭṭhujukamma), là tạo phước bằng cách trau dồi kiến thức, làm cho tri kiến được ngay thẳng, chánh kiến.

Trong mười điều tạo phước ấy, điều bố thí, hồi hướng và tùy hỷ là chung một nhóm pháp tạo phước vật; điều trì giới, cung kính và phục vụ là chung một nhóm pháp tạo phưóc đức; điều tu tiến, thính pháp và thuyết pháp là chung một nhóm pháp tạo phước trí; riêng về điều cải chánh kiến thức là pháp hỗ trợ chín pháp kia và tạo được ba loại phước. -- D.A. III.999; Comp. 146

Thứ Sáu, 12 tháng 8, 2011

III.13. MƯỜI BẤT THIỆN NGHIỆP ĐẠO

Khi Đức Thế Tôn trú ở Pāvā, trong vườn xoài của thợ rèn Cunda, ngài đã thuyết cho thợ rèn Cunda nghe về mười bất thiện nghiệp đạo là điều bất tịnh hạnh cho con người, là nghiệp dẫn đến ác thú, là đạo lộ khổ cảnh. Mười bất thiện nghiệp đạo ấy là:

1- Sát sanh (Pāṇātipātā), là sự sát hại đả thương, cướp mạng sống của chúng sanh, không có lòng từ đối với các loài hữu tình.

2- Trộm cắp (Adinnādānā), là sự lấy của không cho, đoạt tài sản của người khác dù không được người khác bằng lòng.

3- Tà hạnh trong dục lạc (Kāmesu micchācāra) là tà dâm với các hạng nữ nhân còn sự bảo hộ hoặc đã có chồng.

Ba điều sát sanh, trộm cắp, tà hạnh này là thân bất tịnh hạnh, thân ác nghiệp.

4- Nói dối (Musāvāda), là nói không đúng sự thật, có nói không, không nói có, dù nói với bất cứ mục đích gì hễ nói láo đều là miệng nói dối.

5- Nói ly gián (Pisuṇāvācā), là nói chia rẽ, nói đâm thọc với người này chuyện người kia, với người kia chuyện nguời này để hai người ấy bất hòa nhau.

6- Nói độc ác (Pharusavācā), là nói lời thô bạo, thô tục, khiến người nghe đau khổ bực tức.

7- Nói phù phiếm (Samphappalāpa), là nói lời phi chơn, phi thời, phi pháp, phi luật, nhảm nhí, vô ích.

Bốn điều: nói dối, nói ly gián, nói độc ác, nói phù phiếm này là khẩu bất tịnh hạnh, khẩu ác nghiệp.

8- Tham lam (Abhijjhā), là tham muốn tài sản của kẻ khác, mong đoạt tài sản người khác về cho mình.

9- Sân hận (Byāpāda), là tâm phẫn nộ, khởi lên hại ý, hại niệm, muốn cho chúng sanh khác bị chết, bị tiêu diệt.

10- Tà kiến (Micchādiṭṭhi), là có tri kiến sai lầm, tư tưởng điên đảo cho rằng không có đời này, không có đời sau, không có quả báo của thiện ác, không có ân đức mẹ cha, không có thành tựu của đời sống phạm hạnh.

Ba điều: tham lam, sân hận, và tà kiến này là ý bất tịnh hạnh, ý ác nghiệp. -- A.V.263

II.14. MƯỜI THIỆN NGHIỆP ĐẠO

Điều này cũng được Đức Thế Tôn thuyết cho thợ rèn Cunda nghe tiếp theo bài giảng về mười bất thiện nghiệp đạo.

"Này Cunda, có mười thiện nghiệp đạo này là tịnh hạnh về thân có ba, tịnh hạnh về khẩu có bốn, tịnh hạnh về ý có ba. Ai thành tựu với mười thiện nghiệp đạo này sẽ mở con đường dẫn đến thiên giới, nhân giới, hoặc bất cứ thiện thú nào khác".

Mười thiện nghiệp đạo ấy là:

1- Từ bỏ sát sanh (Pāṇātipātā paṭivirato hoti), tức là tránh giết hại chúng sanh, sống bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ thương xót đến các loài hữu tình.

2- Từ bỏ trộm cắp (Adinnādānā paṭivirato hoti), tức là không lấy bất cứ vật gì của người khác với ý niệm cướp đoạt.

3- Từ bỏ tà hạnh trong các dục (Kāmesu micchācārā paṭivirato hoti), tức là không tà dâm, không quan hệ tình dục bất chính với nữ nhân đã có chồng hoặc còn sự bảo hộ.

Ba điều này gọi là thân tịnh hạnh, thân thiện nghiệp.

4- Từ bỏ nói dối (Musāvādā paṭivirato hoti), tức là không nói sai sự thật, có nói có, không nói không, chẳng nói dối vì bất cứ nguyên nhân gì.

5- Từ bỏ nói ly gián (Pisuṇāya vācāya paṭivirato hoti), tức là không nói đâm thọc, không chia rẽ, không phá vỡ sự hòa hợp, không nghe chỗ này nói lại chỗ kia, không nghe chỗ kia nói lại chỗ này để ly gián hai bên; vui hòa hợp.

6- Từ bỏ nói độc ác (Pharusāya vācāya paṭivirato hoti), tức là không nói lời thô bạo ác độc khiến người nghe bực tức đau khổ, chỉ nói lời ngọt ngào tao nhã.

7- Từ bỏ nói phù phiếm (Samphappalāpā paṭivirato hoti), không nói lời vô ích, phi lý, phi chân; chỉ nói lời có ý nghĩa, có lợi ích, nói lời nói đáng để nghe.

Bốn điều này gọi là khẩu tịnh hạnh, khẩu tịnh nghiệp.

8- Không tham lam (Anabhijjhālu hoti), không thèm muốn tài sản của người khác, không thích sang đoạt tài sản của người.

9- Không có sân tâm (Abyāpamacitto hoti), không khởi lên hại ý, hại niệm, luôn có tư tưởng mong cho chúng sanh này được an lạc, không thù hận, không oan trái.

10- Có chánh kiến (Sammādiṭṭhiko hoti), không có tư tưởng điên đảo, không có tri kiến sai lầm, hiểu thấy đúng, tin có đời này đời sau, có sự tái sanh, có quả báu của thiện ác, có ân đức cha mẹ, có sự thành tựu của phạm hạnh.

Ba điều này là ý tịnh hạnh, ý thiện nghiệp. -- A.V.266



II.10. BỐN SỰ CHUNG SỐNG GIA ĐÌNH

Đức Phật đã thuyết pháp này cho các nam nữ gia chủ khi họ đến viếng thăm Ngài, lúc Ngài đang ở tại một tàn cây trên con đường giữa Madhurā và Verañjā. Đức Thế Tôn thuyết có bốn sự chung sống của nam nữ cư sĩ:

1- Tiện nam chung sống với tiện nữ (Chavo chavāya saddhiṃ saṃvasati), nghĩa là một người nam tính độc ác xấu xa sống chung với một người nữ tính ác độc xấu xa.

2- Tiện nam chung sống với thiên nữ (Chavo deviyā saddhiṃ saṃvasati), nghĩa là một người nam ác độc xấu xa sống với một người nữ tính hiền thiện đạo đức.

3- Thiên nam chung sống với tiện nữ (Devo chavāya saddhiṃ saṃvasati), nghĩa là một người nam hiền thiện đạo đức lại chung sống với một người nữ tính ác độc xấu xa.

4- Thiên nam chung sống với thiên nữ (Devo deviyā saddhiṃ saṃvasati), nghĩa là một người nam tính hiền thiện đạo đức chung sống với một người nữ cũng có tính hiền thiện đạo đức.

Người tính hiền thiện đạo đức là người có giới hạnh, không bỏn xẻn và không hung tàn. Người tính ác độc xấu xa là người không giới hạnh, xan tham bỏn xẻn, và hung tàn. -- A.II.57

II.11. BỐN NHÂN DUYÊN TẠO XỨNG ĐÔI VỢ CHỒNG

Đức Phật đã thuyết pháp thoại này cho vợ chồng của gia chủ, cha mẹ Nakulā. Khi Đức Thế Tôn ngụ tại khu rừng Bhesakalā ở Bhagga, vào buổi sáng Ngài đi khất thực đến trú xứ của hai người ấy. Cả hai người đã bày tỏ rằng họ rất thương yêu nhau và hài lòng về nhau, họ muốn gặp mặt nhau ở đời sau nữa. Đức Phật đã dạy rằng, nếu họ muốn gặp nhau từ đời này đến đời sau, yêu thương và hạnh phúc, cả hai người phải đồng tín, đồng giới, đồng thí và đồng trí tuệ, như vậy sẽ gặp nhau nữa. Bốn nhân duyên tạo xứng đôi vợ chồng là:

1- Đồng có đức tin (Samasaddhā), nghĩa là cả hai người đều có chánh tín, tin tưởng Tam bảo, tin lý nghiệp báo.

2- Đồng có giới hạnh (Samasīla), nghĩa là cả hai người đều giữ giới, không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu.

3- Đồng có bố thí (Samacāgā), nghĩa là cả hai người đều có tâm rộng rãi, xả tài, thích phân phát tài sản đến người nghèo khó, biết cúng dường đến các sa môn.

4- Đồng có trí tuệ (Samapaññā) nghĩa là cả hai người đều có trí hiểu biết chân chánh, có chánh kiến, thấy biết nhân quả, thấy biết bản chất cuộc đời, nhận thức được bốn sự thật khổ - tập - diệt - đạo. -- A.II.61

II.12. NĂM NGHỀ BUÔN BÁN TRÁI ĐẠO CỦA CƯ SĨ

Đức Phật đã thuyết điều này cho các tỳ kheo nghe; một người cư sĩ không nên làm năm nghề buôn bán này:

1- Buôn bán vũ khí (Satthavaṇijjā), nghĩa là buôn bán bất cứ vật gì gọi là khí giới, công cụ dùng để giết hại nhau như gươm đao, cung nỏ, súng đạn v.v...

2- Buôn bán chúng sanh (Sattavaṇijjā), theo chú giải, giải thích điều gọi là buôn bán chúng sanh tức bán con người cho mua về làm nô lệ.

3- Buôn bán thịt (Maṃsavaṇijjā), theo chú giải, điều gọi là buôn bán thịt là buôn bán thú vật cho người ta mua về nuôi hoặc ăn thịt, kể cả việc mua đi bán lại thịt thú được giết mổ.

4- Buôn bán chất say (Majjavaṇijjā), nghĩa là buôn bán các chất làm cho say nghiện, như các loại rượu, cần sa á phiện ...

5- Buôn bán độc dược (Visavaṇijjā), tức là buôn bán chất độc, thứ dùng để đầu độc hại chúng sanh.

Người cư sĩ nuôi sống bằng một trong các nghề buôn bán này gọi là người sống tà mạng. -- A. III. 208


Thứ Ba, 9 tháng 8, 2011

Cư Sĩ Giới Pháp
10-08-2011

CÁC PHÁP MÔN THUYẾT CHO CƯ SĨ



II.6. BỐN PHÁP ĐEM ĐẾN LỢI ÍCH TƯƠNG LAI

Bốn pháp lợi ích tương lai này cũng được Đức Phật thuyết cho thiện nam tử Dīghajānu, ở thị trấn Kakkarapatta xứ Vajjī.

1- Đầy đủ niềm tin (Saddhāsampadā), là thành tựu chánh tín; có đức tin đối với Tam bảo, nhất là tin tưởng sự giác ngộ của Đức Như Lai.

2- Đầy đủ giới hạnh (Sīlasampadā), là thành tựu giới đức; từ bỏ sát sanh, từ bỏ trộm cắp, từ bỏ tà dâm, từ bỏ nói dối, từ bỏ uống rượu và chất say.

3- Đầy đủ bố thí (Cāgasampadā), là sống với tâm không bị cấu uế bởi xan tham, không bỏn xẻn, bố thí rộng rãi, thích chia sẻ khi được yêu cầu.

4- Đầy đủ trí tuệ (Paññāsampadā), là có trí tuệ, thành tựu trạch pháp, thấy rõ sự sanh diệt của các pháp, để thể nhập chánh kiến. -- A.IV. 284

II.7. BỐN ĐỨC HẠNH NGƯỜI TẠI GIA

Dạ xoa Ālavaka hỏi Đức Phật rằng, làm thế nào mà ra đi từ đời này đến đời khác con người không bị sầu muộn? Đức Phật đã dạy, người cư sĩ có bốn đức hạnh này nhất định không sầu muộn sau khi chết:

1- Chân thật (Sacca), nghĩa là lời nói và việc làm đều đúng với sự thật, không giả dối, không hư ngụy.

2- Tự chế (Dama), nghĩa là biết điều phục huấn luyện tâm, tự dạy tâm, tự cải tạo cho mình được tiến hóa.

3- Kham nhẫn (Khanti), nghĩa là có sức chịu đựng nhẫn nại trước nghịch cảnh, kiên nhẫn với mọi khó khăn.

4- Xả tài (Cāga), nghĩa là bố thí chia sẻ đến người khác, dứt bỏ lòng ích kỷ bỏn xẻn. -- S.I.215; Sn.188

II.8. BỐN PHÁP THỊNH CỦA GIA ĐÌNH

Đức Phật thuyết cho các tỳ kheo, những gia đình nào có được tài sản, muốn được tồn tại lâu dài, đều do nhờ bốn sự kiện này hay một trong bốn sự kiện này. Bốn sự kiện hưng thịnh cho gia đình là:

1- Biết tìm lại cái đã mất (Naṭṭhagavesanā), nghĩa là trong gia đình cái gì đã bị tiêu hao, đã bị mất mát, do đã ăn xài hoặc bị trộm cướp ... thì người trong gia đình biết làm cho có lại những gì đã mất.

2- Biết sửa chữa cái đã hư cũ (Jiṇṇapaṭisaṅkharaṇā), nghĩa là trong gia đình cái gì dùng xài đã lâu, nay đã cũ kỹ đã giảm chất lượng, như nhà cửa hoặc vật dụng ... người trong gia đình biết tu bổ cải thiện cho mới lại.

3- Biết độ lượng việc ăn uống (Parimitapānabhojanā), nghĩa là chi phí trong việc ăn uống, giải trí, phải có chừng mực, hợp lý, vừa với sự thu nhập của gia đình.

4- Đặt người đức hạnh vào vai trò chủ đạo (Adhipaccasīlavantaṭhapanā), nghĩa là trong gia đình, những vị trí lãnh đạo như gia chủ, quản gia, nội trợ ... phải do người có đạo đức giới hạnh đảm nhận.

Ngược lại, gia đình nào không có bốn sự kiện này, sẽ làm cho gia đình suy sụp, không hưng thịnh, không tồn tại lâu dài. -- A.II.249

II.9. TÁM NGUỒN CÔNG ĐỨC SANH TRỜI NGƯỜI

Đức Phật đã thuyết cho các tỳ kheo nghe về tám nguồn công đức, nhân sanh cõi người và trời, được khả ái, khả ý, khả hỷ, an lạc, hạnh phúc. Tức là ba qui y và năm vô úy thí.

1- Quy y Phật (Buddhaṃ saranaṃ gato hoti), tức là nương về với Đức Thế Tôn bậc Ứng Cúng Chánh Biến Tri.

2- Quy y Pháp (Dhammaṃ saranaṃ gato hoti), tức là nương về chánh pháp, giáo pháp được khéo thuyết bởi Đức Thế Tôn.

3- Quy y Tăng (Saṅghaṃ saranaṃ gato hoti), tức là nương về chúng Tăng đệ tử xuất gia của Đức Thế Tôn.

4- Vô úy thí từ bỏ sát sanh (Pāṇatipātā paṭivirato hoti abhayadānaṃ), nghĩa là cho sự không sợ hãi đến chúng sanh bằng cách từ bỏ sát hại mạng sống.

5- Vô úy thí từ bỏ trộm cắp (Adinnādānā paṭivi-rato hoti abhayadānaṃ), nghĩa là cho sự không sợ hãi đến chúng sanh bằng cách từ bỏ sự cướp đoạt vật chưa cho.

6- Vô úy thí từ bỏ tà hạnh các dục (Kāmesu micchācārā paṭivirato hoti abhayadānaṃ) nghĩa là cho sự không sợ hãi đến chúng sanh bằng cách từ bỏ sự tà dâm phi pháp.

7- Vô úy thí từ bỏ nói dối (Musāvādā paṭivirato hoti abhayadānaṃ) nghĩa là cho sự không sợ hãi đến chúng sanh bằng cách từ bỏ sự dối trá lừa gạt.

8- Vô úy thí từ bỏ nghiện ngập rượu (Surāmerayamajjamapādaṭṭhānā paṭivirato hoti abhayadānaṃ) nghĩa là cho sự không sợ hãi đến chúng sanh bằng cách từ bỏ uống rượu, say sưa.

Người cư sĩ qui y Tam bảo là đem lại sự an vui cho mình; thọ trì ngũ giới là đem lại sự an vui cho chúng sanh, làm cho chúng sanh khác không sợ hãi, không oán thù, không bị tai hại, nên cũng gọi là vô úy thí (abhayaṃ deti). -- A.IV.24


Trích CƯ SĨ GIỚI PHÁP. TK GIÁC GIỚI

Thứ Hai, 8 tháng 8, 2011

Cư Sĩ Giới Pháp
09-08-2011



BỐN PHÁP TẠO LỢI ÍCH HIỆN TẠI


Đức Phật đã thuyết bốn pháp tạo lợi ích hiện tại này ở thị trấn Kakkarapatta xứ Vajjī, cho thiện nam tử Dīghajānu. Có bốn pháp đưa đến an lạc hiện tại cho người cư sĩ tại gia.

1- Đầy đủ sự nỗ lực (Uṭṭhānasampadā) tức là có sự siêng năng tháo vát trong nghề nghiệp, không biếng nhác, biết phương pháp làm việc để đạt đến kết quả.

2- Đầy đủ sự bảo quản (Ārakkhasampadā), tức là có khả năng bảo vệ gìn giữ tài sản đã thu hoạch, không để bị thất thoát hư hại do thiên tai hỏa hoạn trộm cướp ...

3- Có bạn lành (Kalyānamittatā), tức là giao du thân cận với những người hiền thiện đạo đức là những người giàu lòng tin, có giới hạnh, có bố thí và có trí tuệ.

4- Cuộc sống thăng bằng (Samajīvitā), tức là biết sống chừng mực điều độ, vừa với sự thu nhập, không phung phí quá độ cũng không hà tiện bón rít. -- A.IV.281

Cư Sĩ Giới Pháp
08-08-2011

CÁC PHÁP MÔN THUYẾT CHO CƯ SĨ

BỐN ĐIỀU HẠNH PHÚC CỦA CƯ SĨ


Đức Phật đã thuyết cho trưởng giả Anāthapiṇḍika (Cấp-cô-độc) về bốn điều hạnh phúc của người tại gia.

1- Hạnh phúc sở hữu (Atthisukha), là niềm an lạc do phát sanh tài sản hợp pháp, bằng sự nỗ lực siêng năng làm nghề nghiệp. Khi nghĩ đến sự sở hữu tài sản một cách chân chính như vậy, người cư sĩ cảm thấy hạnh phúc.

2- Hạnh phúc hưởng thụ (Bhogasukha), là niềm an lạc do thọ hưởng tài sản của mình đã có, nuôi bản thân, nuôi gia đình và làm các công đức. Khi nghĩ đến sự thọ hưởng những tài sản tự tạo ra như vậy, người cư sĩ cảm thấy hạnh phúc.

3- Hạnh phúc không nợ nần (Anaṇasukha), là niềm an lạc do không bị mắc nợ ai dù ít hay nhiều. Khi người cư sĩ trong gia đình biết sống tri túc, vừa với sự thu nhập, không để bị thiếu nợ; người ấy được thoải mái hạnh phúc, không có lo lắng hồi hộp.

4- Hạnh phúc không lỗi lầm (Anavajjasukha), là niềm an lạc do không làm điều tội lỗi, thân hành không phạm tội, khẩu hành không phạm tội, ý hành không phạm tội, phạm tội đối với luật nghiệp báo và đối với luật quốc độ. Khi người cư sĩ sống không vi phạm lỗi lầm như vậy, tâm tư an ổn, hạnh phúc, không bị đau khổ lo sợ.

Trong bốn điều hạnh phúc này, điều "Hạnh phúc không lỗi lầm" là điều hạnh phúc có giá trị cao nhất. -- A.II.69

Trích CƯ SĨ GIỚI PHÁP. TK GIÁC GIỚI

Thứ Bảy, 6 tháng 8, 2011

Cư Sĩ Giới Pháp
07-08-2011

CÁC PHÁP MÔN THUYẾT CHO CƯ SĨ


MƯỜI ĐỨC LÀNH CỦA NGƯỜI PHẬT TỬ

Trong chú giải có nói đến mười đức lành của người Phật tử đã qui y Tam bảo như sau:

1- Đồng vui khổ với chư Tăng (Saṅghena saddhiṃ samānasukhadukkho hoti), là khi chúng tỳ kheo có việc vui hay khổ, thì nguời thiện tín đều có quan tâm chia sẻ; Tăng chúng vui thì mình hoan hỷ, Tăng chúng khổ thì mình cùng lo.

2- Khéo giữ gìn thân khẩu (Kāyikavācasikañca surakkhitaṃ hoti), là người thiện tín phải có hành vi tốt đẹp, lời nói tốt đẹp.

3- Lấy pháp làm trọng (Dhammo adhipateyyo hoti), nghĩa là người thiện tín luôn luôn sống y cứ giáo pháp, lấy chánh pháp làm chuẩn mực, làm căn bản, làm kim chỉ nam.

4- Vui chia sẻ tùy khả năng (Yathāthāmena saṃvibhāgarato' va hoti), nghĩa là người thiện tín có tâm hoan hỷ trong việc bố thí xả tài tùy theo sức tài sản mình có.

5- Cố gắng học hiểu giáo lý của Phật (Jinasāsanaṃ jānituñca vāyamati), nghĩa là người thiện tín phải cố gắng tìm hiểu học hỏi giáo pháp của bậc Đạo Sư đã dạy.

6- Có chánh kiến (Sammādiṭṭhiko'va hoti), nghĩa là người thiện tín phải có tri kiến chân chánh, hiểu đúng với chơn lý, thấy rõ vô thường, khổ não và vô ngã; hiểu biết nghiệp báo luân hồi.

7- Từ bỏ sự bói toán đoán điềm (Apagato kotuhalamaṅgaliko'va hoti), nghĩa là người thiện tín không tin theo sao hạn hên xui, mê tín dị đoan.

8- Không xu hướng Đạo Sư khác dù có vì nhân mạng sống (Jīvitahetupi aññaṃ satthāraṃ na uddisati), nghĩa là người thiện tín không vì nhân mạng sống bị đe dọa hay vì để nuôi mạng mà hướng về thầy ngoại đạo khác bỏ Đức Phật.

9- Vui thích trong sự hòa hợp (Samaggārāmo' va hoti), nghĩa là người thiện tín luôn luôn sống đoàn kết, hoan hỷ trong sự đoàn kết, không chia rẽ, không phe phái.

10- Thực hành theo giáo lý (Sāsane carati), nghĩa là người thiện tín luôn luôn thực hành lời dạy của Đức Phật, tinh tấn tu tập.

Đây là mười đức tính tốt đẹp của một người cư sĩ chân chánh trong Phật giáo, người cư sĩ có mười đức lành này đáng gọi là cận sự nam và cận sự nữ đệ tử Tam Bảo. -- Kh.A.550.


Trích CƯ SĨ GIỚI PHÁP. TK GIÁC GIỚI

Thứ Sáu, 5 tháng 8, 2011

Cư Sĩ Giới Pháp
06-08-2011

CÁC PHÁP MÔN THUYẾT CHO CƯ SĨ

PHÁP TÁNH NGƯỜI CẬN SỰ TAM BẢO


Đức Thế Tôn dạy:

"Này các tỳ kheo, một cận sự (Upāsaka) thành tựu năm pháp này sẽ là cư sĩ châu báu, cư sĩ hồng liên hoa, cư sĩ bạch liên hoa. Thế nào là năm? Đó là có niềm tin (saddho hoti), có giới hạnh (sīlavā hoti), không tin bói toán đoán điềm (Akotuhalamaṅgaliko hoti), không tìm đối tượng đáng cúng dường ngoài Tam bảo (na ito bahiddhā dakkhineyyaṃ gavesati), phụng sự Tam bảo trước hết (idha ca pubbakāraṃ karoti). -- A.III.206

Năm pháp tánh này là tánh hạnh ưu việt của người cư sĩ, thành người cư sĩ cao quí, người cư sĩ thanh lương trong sáng.

1- Có niềm tin. Tức là có sự tin tưởng đối với Phật, Pháp, Tăng, không hoài nghi; có niềm tin vững chắc nơi Tam bảo.

2- Có giới hạnh. Tức là an trú trong ngũ giới hay bát quan trai giới, thọ trì giới một cách nghiêm túc.

3- Không tin bói toán, đoán điềm. Tức là người cư sĩ chơn chánh chỉ tin vào luật nhân quả nghiệp báo, không tin vào sự may rủi do sao hạn chiếu mệnh, hay điềm báo tốt xấu.

4- Không tìm đối tượng đáng cúng dường ngoài Tam bảo. Tức là người cư sĩ đệ tử Phật dù có bố thí đến các ngoại đạo, chỉ vì lòng bi mẫn giúp đỡ họ, chứ không đặt họ ở địa vị bậc đáng cúng dường ngang hàng với Tam bảo.

5- Phụng sự Tam bảo trước hết. Tức là luôn luôn ưu tiên cho Tam bảo từ việc nhỏ đến việc lớn, phục vụ Tam bảo trước rồi mới thực hiện cho ngoại đạo sau nếu cần làm.

Trích CƯ SĨ GIỚI PHÁP. TK GIÁC GIỚI

Thứ Năm, 4 tháng 8, 2011

Cư Sĩ Giới Pháp
05-08-2011

CÁC PHÁP MÔN THUYẾT CHO CƯ SĨ



II.1. MƯỜI HẠNG CƯ SĨ

Một thời, Đức Thế Tôn trú ở Sāvatthī, tại chùa Jetavana (Kỳ Viên). Bấy giờ gia chủ Anāthapiṇḍika (Cấp-cô-độc) đến viếng thăm Đức Phật. Đức Phật thuyết pháp cho gia chủ Anāthapiṇḍika nghe về mười hạng người hưởng dục (Kāmabhogī), tức là người tại gia cư sĩ.

Mười hạng cư sĩ ấy là:

1- Có hạng cư sĩ tìm tài sản bằng cách phi pháp thủ đoạn; khi tìm được tài sản như vậy, người ấy không tự làm cho mình an vui no đủ, không chia sẻ và không tạo phước.

2- Có hạng cư sĩ tìm tài sản bằng cách phi pháp thủ đoạn; khi tìm được tài sản như vậy, người ấy tự làm cho mình an vui no đủ, nhưng không chia sẻ và không tạo phước.

3- Có hạng cư sĩ tìm tài sản bằng cách phi pháp thủ đoạn; nhưng khi tìm được tài sản như vậy, người ấy tự làm cho mình an vui no đủ, biết chia sẻ và tạo phước.

4- Có hạng cư sĩ tìm tài sản bằng cách vừa hợp pháp và phi pháp, vừa thủ đoạn và không thủ đoạn; khi tìm được tài sản như vậy, người ấy không tự làm cho mình an vui no đủ, không chia sẻ và không tạo phước.

5- Có hạng cư sĩ tìm tài sản bằng cách vừa hợp pháp và phi pháp, vừa thủ đoạn và không thủ đoạn; khi tìm được tài sản như vậy, người ấy tự làm cho mình an vui no đủ, nhưng không chia sẻ, không tạo phước.

6- Có hạng cư sĩ tìm tài sản bằng cách vừa hợp pháp và phi pháp, vừa thủ đoạn và không thủ đoạn; khi tìm được tài sản như vậy, người ấy không tự làm cho mình an vui no đủ, biết chia sẻ và tạo phước.

7- Có hạng cư sĩ tìm tài sản bằng cách hợp pháp và không thủ đoạn; khi tìm được tài sản như vậy, người ấy không tự làm cho mình an vui no đủ, không chia sẻ, không tạo phước.

8- Có hạng cư sĩ tìm tài sản bằng cách hợp pháp và không thủ đoạn; khi tìm được tài sản như vậy, người ấy tự làm cho mình an vui no đủ, nhưng không chia sẻ, không tạo phước.

9- Có hạng cư sĩ tìm tài sản bằng cách hợp pháp và không thủ đoạn; khi tìm được tài sản như vậy, người ấy tự làm cho mình an vui no đủ, biết chia sẻ, tạo việc phước; nhưng người ấy thọ dụng tài sản tham đắm, đam mê, nhiễm trước, không thấy sự nguy hiểm, không có trí tuệ xuất ly.

10- Có hạng cư sĩ tìm tài sản bằng cách hợp pháp và không thủ đoạn; khi tìm được tài sản như vậy, người ấy tự làm cho mình an vui no đủ, biết chia sẻ, tạo việc phước; và người ấy thọ dụng tài sản không tham đắm, không đam mê, không nhiễm trước, thấy được sự nguy hiểm, có trí tuệ xuất ly. -- S.IV.331; A.V.176

Mười hạng cư sĩ này được chia ra có bốn bậc:

- Bậc thấp, gồm ba hạng cư sĩ tìm tài sản phi pháp và thủ đoạn. Trong ba hạng này, có điểm đáng khen, có điểm đáng chê. Người biết làm cho mình an vui no đủ, là điểm đáng khen; không tự làm cho mình an vui no đủ, là điểm đáng chê. Người biết chia sẻ, biết tạo phước, là điểm đáng khen, không biết chia sẻ, không biết tạo phước, là điểm đáng chê.

- Bậc trung, gồm ba hạng cư sĩ tìm tài sản vừa hợp pháp và phi pháp, vừa thủ đoạn và không thủ đoạn. Trong ba hạng này, có điểm đáng khen, có điểm đáng chê.

- Bậc cao, gồm ba hạng cư sĩ tìm tài sản hợp pháp và không thủ đoạn. Trong ba hạng này, có điểm đáng khen, có điểm đáng chê.

- Bậc tối thắng, là hạng cư sĩ có đủ các ưu điểm đáng khen, tức là "Tìm tài sản hợp pháp và không thủ đoạn"; "Tự làm cho mình an vui no đủ"; "Biết chia sẻ và tạo phước"; "Thọ dụng không tham đắm, không đam mê, không nhiễm trước, thấy được nguy hiểm, có trí tuệ xuất ly". Đây là hạng cư sĩ ưu thắng trong mười hạng cư sĩ.

Trích CƯ SĨ GIỚI PHÁP. TK GIÁC GIỚI
Cư Sĩ Giới Pháp

4-8-2011

I.6. VAI TRÒ CƯ SĨ TRONG PHẬT GIÁO


Đức Phật có tâm đại bi với chúng sanh, Ngài thuyết pháp vừa theo trình độ và hoàn cảnh của mỗi người, để họ có thể thực hành theo giáo pháp hầu được an vui hạnh phúc và giải thoát khỏi khổ luân hồi như Ngài.

Giáo pháp của Đức Phật ứng dụng cho cả hai giới xuất gia và tại gia.

Người cư sĩ trong Phật giáo cũng có trách nhiệm nặng nề đối với việc tồn vong của chánh pháp.

Đức Phật có thuyết rằng:

"Ở đây, sau khi Như Lai nhập diệt, các tỳ kheo, các tỳ kheo ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ sống tôn trọng và qui thuận bậc Đạo Sư, sống tôn trọng và qui thuận giáo pháp, sống tôn trọng và qui thuận Tăng chúng, sống tôn trọng và qui thuận học giới, sống tôn trọng và qui thuận lẫn nhau. Đây là nguyên nhân chánh pháp được tồn tại lâu dài sau khi Như Lai viên tịch" (A.III.247).

Người cư sĩ Phật giáo, đúng nghĩa là cận sự nam và cận sự nữ không phải là người chi đến với Phật giáo như một học giả nghiên cứu triết học Đông phương. Mà phải nhận thức rõ vai trò của mình đối với Phật pháp, phải thiết tha sống theo tinh thần lời dạy của Đức Phật để hướng tìm mục đích giải thoát, thành tựu hạnh phúc thật sự.

Người cư sĩ chân chánh trong Phật giáo có hai vai trò:

1. Vai trò người hộ pháp (Dhammarakkhaka).
2. Vai trò người thừa tự pháp (Dhammadāyadaka).

Vai trò hộ pháp

Hộ pháp tức là hộ trì Tam bảo: hộ trì Phật bảo, hộ trì Pháp bảo, hộ trì Tăng bảo.

Hộ trì Phật bảo, gọi là hộ pháp. Vì rằng Đức Phật là bậc giác ngộ chân lý, bậc đã tìm ra pháp giải thoát, bậc kính trọng chánh pháp. Do vậy, sự hộ trì Phật bảo cũng gọi là hộ pháp.

Hộ trì Pháp bảo, gọi là hộ pháp. Vì rằng giáo lý của Đức Phật là pháp đem đến sự an vui cho chúng sanh thiết thực hiện tại, lợi ích tương lai, và thoát khỏi luân hồi. Giữ vững giáo pháp cho đúng tinh thần chánh pháp, không để bị mai một, bị sai lệch văn cú ý nghĩa lời dạy của Đức Phật. Đó gọi là hộ pháp.

Hộ trì Tăng bảo, gọi là hộ pháp. Vì rằng Tăng chúng là những vị đệ tử thừa hành giáo lý của Đức Phật, truyền thừa Phật pháp tồn tại trong thế gian ngay khi Đức Phật còn tại thế và sau khi Đức Phật níp bàn. Tăng chúng còn là Giáo pháp còn, do đó sự hộ trì Tăng bảo cũng là hộ pháp.

a) Hộ trì Phật Bảo

Người cư sĩ hộ trì Phật bảo bằng bốn hình thức sau đây:

1- Giữ vững niềm tin đối với Đức Phật, không có hoài nghi sự giác ngộ của Ngài.
2- Hằng tán dương Đức Phật và hoan hỷ người khác tán dương Đức Phật.
3- Thường xuyên lễ bái Đức Phật qua hình, tượng, xá lợi.
4- Xây dựng đền tháp, tôn thờ Phật cảnh trang nghiêm để tôn vinh Đức Phật. Nếu không có khả năng tự mình làm thì ủng hộ người khác cùng làm.

Việc thờ phụng Đức Phật, người cư sĩ làm vai trò ấy là hợp lý hơn các vị xuất gia. Khi Đức Thế Tôn sắp viên tịch, tôn giả Ānanda đã bạch hỏi Ngài về việc xử sự đối với thân Xá Lợi của Thế Tôn phải như thế nào? Đức Phật bảo rằng:

"Này Ānanda, các ngươi chớ bận lo việc thờ phượng Xá Lợi của Như Lai; hãy tinh tấn tự lợi, hãy chuyên cần tự lợi, hãy sống nỗ lực nhiệt tâm, không dể duôi. Này Ānanda, có các hiền trí Sát đế lỵ, các hiền trí Bà la môn, các hiền trí gia chủ tín ngưỡng Như Lai, những người ấy sẽ thờ phượng thân xá lợi của Như Lai" (D.II.141).

b) Hộ trì Pháp bảo

Người cư sĩ hộ trì Pháp bảo bằng năm hình thức sau đây:

1- Giữ vững niềm tin đối với giáo pháp, không có hoài nghi về hiệu năng hướng thượng của Giáo pháp.
2- Siêng năng học hỏi giáo pháp, thọ trì đúng chánh pháp, không mê tín dị đoan, không xu hướng ngoại đạo.
3- Hoan hỷ cúng dường đến các vị tỳ kheo, sa di là bậc đa văn, những vị học pháp, hành pháp và duy trì giáo pháp.
4- Có sự ưu tư trong việc chấn hưng Phật pháp khi thấy có dấu hiệu bi suy thoái, bị phá hoại.
5- Tùy khả năng của mình, hỗ trợ chư Tăng kết tập kinh điển, in ấn sách kinh, mở trường lớp Phật học v.v...

Từ thời Đức Phật đã có những tấm gương cư sĩ hộ pháp như ông Anāthapiṇḍika, bà Visākhā, vua Pasenadi, sau này có vua Asoka ... chẳng những họ cúng dường vật chất hộ độ Đức Phật và Tăng chúng mà họ còn rất quan tâm để hộ trì chánh pháp, cũng cố Phật pháp, làm sao cho giáo pháp hưng thịnh.

Người cư sĩ hộ trì chánh pháp nổi bậc nhất là đức vua Asoka (A Dục vương). Với quyền hành của mình, nhà vua đã cố gắng học Phật pháp cho thông suốt để sàng lọc ra những vị tu sĩ giả danh gây xáo trộn trong Phật giáo, nhà vua cũng đã nhiệt tâm hộ độ chư Tăng kết tập kinh điển lần thứ ba, nhà vua cũng tận tâm giúp đỡ chư Tăng đi hoằng pháp mở mang Phật giáo đến các nước lân bang ...

c) Hộ trì Tăng bảo

Người cư sĩ hộ trì Tăng bảo bằng năm hình thức sau đây:

1- Có niềm tin vững chắc nơi Tăng chúng, không vì lý do một vài phần tử cá nhân xấu mà mất niềm tin với Tăng chúng.
2- Thường xuyên hộ độ cúng dường các nhu cầu vật chất đến chư tăng.
3- Luôn luôn bảo vệ uy tín và thanh danh cho Tăng chúng.
4- Quan tâm đến sự an nguy thịnh suy của Tăng chúng, đồng vui cộng khổ với chư tăng.
5- Đối xử với Tăng chúng bằng sự kính trọng và nhu thuận.

Các cư sĩ thời Đức Phật như ông Jīvakakomārabhacca, bà Visākhā, vua Pasenadi ... là những người hộ Tăng tiêu biểu, vừa hộ độ thực phẩm, vừa bảo vệ thanh danh chư tăng, vừa khéo góp ý nhắc nhở những vị có hành vi sai trái để chấn chỉnh giáo hội tốt đẹp.

Vai trò thừa tự pháp

Thừa tự (dāyada) là sự kế thừa, thừa hưởng, như là thừa tự tài sản, thừa hưởng gia sản v.v... thừa tự pháp là kế thừa Giáo pháp của Đức Phật.

Trong kinh Trung Bộ, Đức Thế Tôn có dạy rằng: "Này các tỳ kheo, các ngươi hãy là người thừa tự pháp của ta, đừng là người thừa tự tài vật - Dhamma-dāyādā me bhikkhave bhavatha mā āmisadāyādā" -- (M.I.12).

Ở vai trò thừa tự pháp, người cư sĩ có ba phận sự:

- Học hỏi giáo lý
- Thực hành giáo pháp
- Duy trì Phật giáo

a) Học hỏi giáo lý

Để lãnh hội những tinh hoa Phật pháp và có được chánh kiến, người cư sĩ phải siêng năng học hỏi giáo lý, ưa thích tìm hiểu Phật pháp. Sự học hỏi giáo lý cho thông suốt, gọi là thừa tự pháp. Ví như một người con kế thừa sự nghiệp của ông cha, là phải biết được giá trị những gì mà ông cha đã để lại, cũng vậy, giáo pháp mà đấng từ phụ đã để lại, đệ tử xuất gia hay tại gia phải chuyên cần học tập để biết được giá trị của giáo pháp ấy, như thế mới đáng gọi là đệ tử thừa tự pháp.

Người cư sĩ học hỏi giáo lý bằng nhiều phương tiện, có thể bằng cách nghe chư Tăng thuyết Phật pháp.

Hoặc có thể học hỏi bằng cách nghiên cứu tham khảo kinh sách Phật giáo.

Hoặc có thể học hỏi bằng cách tìm gặp nhau để đàm luận Phật pháp.

Các cư sĩ thời xưa khi đến viếng thăm Đức Phật hay các vị Tỳ kheo, bao giờ họ cũng hoan hỷ nghe pháp, thiết tha học giáo pháp, như vua Pasenadi, ông Anāthapiṇḍika, bà Visākhā v.v... Có vậy mới xứng đáng gọi là cư sĩ thừa tự pháp.

b) Thực hành giáo pháp

Người cư sĩ không phải chỉ đơn thuần là người có tín ngưỡng tôn giáo, là người theo đạo Phật. Người cư sĩ phải sống theo pháp, thực hành giáo pháp, chấp nhận giáo pháp ứng dụng vào đời sống như là một nhu cầu không thể thiếu. Người cư sĩ có thực hành như vậy mới hưởng được hương vị tuyệt vời của giáo pháp, như khi có nếm qua món ăn rồi mới thưởng thức được hương vị của món ăn đó. Gọi là người cư sĩ thừa tự pháp, phải thật sự cảm nhận được sự đặc thù của chánh pháp qua kinh nghiệm tu tập.

Người cư sĩ ngoài việc học hỏi giáo lý thông suốt, còn phải thực hành nữa. Khi nào còn người thực hành theo giáo pháp thì khi đó Phật pháp còn tồn tại, bởi thế vai trò thừa tự pháp của người cư sĩ cũng rất quan trọng.

Sự thực hành giáo pháp, tức là hành theo ba điều căn bản:

"Không làm các điều ác" (Sabbapāpassa akaraṇaṃ). Nghĩa là người cư sĩ sống né tránh không làm điều tội lỗi như sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói chia rẽ, nói độc ác, nói vô ích, tham lam, sân hận và tà kiến.

"Thực hiện các việc lành" (Kusalassa upasampadā). Nghĩa là người cư sĩ thiết tha làm những điều thiện như bố thí, trì giới, tu tiến, cung kính, phục vụ, thính pháp, nói pháp, hồi hướng phước, tùy hỷ phước và cải chánh tri kiến.

"Thanh lọc nội tâm" (Sacittapariyodapanaṃ). Nghĩa là người cư sĩ tinh tấn thiền định để rèn luyện nội tâm, làm cho tâm trong sạch không bị ô nhiễm bởi phiền não tham, sân, si.

Sự tu tập của người cư sĩ theo ba điều trên, gọi là người cư sĩ thực hành giáo pháp.

c) Duy trì Phật giáo

Người cư sĩ thừa tự pháp, ngoài hai phận sự là học hỏi giáo lý và thực hành giáo pháp, còn có một phận sự nữa cũng rất quan trọng, đó là duy trì Phật giáo.

Phật giáo được tồn tại lâu dài là nhờ vào tứ chúng: tỳ kheo, tỳ kheo ni, cận sự nam và cận sự nữ hết lòng phụng sự duy trì chánh pháp. Trong tứ chúng ấy, tỳ kheo và tỳ kheo ni là hàng xuất gia; cận sự nam và cận sự nữ thuộc hàng tại gia cư sĩ. Bậc xuất gia đóng vai trò chính trong phận sự duy trì Phật pháp vững bền; còn đối với hàng cư sĩ chỉ là vai trò phụ.

Tuy người cư sĩ đối với phận sự duy trì Phật pháp là vai trò phụ nhưng không phải là không quan trọng. Vì nếu người cư sĩ không xuất gia hoặc cư sĩ cha mẹ không hoan hỷ cho con cháu xuất gia thì làm sao có tỳ kheo, tỳ kheo ni để duy trì Phật pháp? Lại nữa, nếu người cư sĩ không ủng hộ cúng dường hoặc bảo vệ Tăng chúng Phật giáo thì làm sao các vị tỳ kheo, tỳ kheo ni có điều kiện thuận lợi làm phận sự duy trì Phật pháp?

Bởi thế, người cư sĩ cũng có phận sự duy trì Phật giáo là gián tiếp. Và người cư sĩ duy trì Phật giáo được gọi là người thừa tự giáo pháp.

Một thời, khi đức vua Asoka (A Dục vương) trở thành Phật tử, đức vua đã ra sức xây cất 84.000 chùa tháp để tôn thờ Xá lợi Đức Phật. Đức vua bạch hỏi chư Thánh Tăng: Sự đại thí như vầy, không biết có ai đã từng làm chưa?

Trưởng lão Moggalliputtatissa thay mặt chư Tăng đã trả lời rằng:

"Thưa Đại vương, dù khi Đức Thế Tôn còn hiện tiền và cho đến nay cũng chưa có một ai làm được việc đại thí như thế này. Chỉ có Đại vương là nguời duy nhất làm được việc đại thí này thôi".

Đức vua Asoka lắng nghe trưởng lão Moggalli-puttatissa trả lời, lòng tràn ngập phỉ lạc. Vua đã suy nghĩ, nếu ta là người đã làm được đại thí này chắc hẳn ta là người thừa kế Phật giáo (Dāyādo sāsanassa) chăng? Nghĩ vậy, Đức vua bèn bạch hỏi vị trưởng lão nữa.

"Kính bạch Tôn giả, trẫm đã làm được đại thí như thế, vậy trẫm có phải là người kế thừa của Phật giáo chăng?"

Trưởng lão đáp:

"Thưa đại vương, người chỉ bố thí bốn món vật dụng, dù có là đại thí chăng nữa cũng chỉ gọi là thí chủ vật dụng (paccayadāyaka), chứ chưa phải là người kế thừa Phật giáo (sāsanadāyada).

Đức vua liền hỏi vị trưởng lão, người thế nào mới gọi là kế thừa Phật giáo. Trưởng lão đáp:

"Những người cha mẹ nào hoan hỷ cho phép con của mình xuất gia trở thành tỳ kheo trong Phật giáo, như vậy, người cha mẹ ấy mới được gọi là người kế thừa Phật giáo."

Đức vua Asoka nghe vậy khởi tâm tịnh tín bèn cho phép hai người con là hoàng tử Mahinda và công chúa Saṅghamittā xuất gia làm tỳ kheo và tỳ kheo ni trong Phật giáo. Sau khi xuất gia, cả hai vị đều đắc quả A la hán, và chính Đại Đức Mahinda đã mở đầu công cuộc hoằng hóa giáo pháp tại xứ Tích Lan.

Các bậc xuất gia duy trì Phật pháp bằng cách hoằng pháp, còn đối với người cư sĩ thì duy trì Phật pháp bằng cách hộ độ chư Tăng hoằng pháp, và tạo người nối truyền hoằng pháp, tức là nếu con em có ý muốn xuất gia thì mình khích lệ, động viên, và hoan hỷ cho phép.

Trích CƯ SĨ GIỚI PHÁP, TK GIÁC GIỚI

Thứ Hai, 1 tháng 8, 2011

Cư sĩ giới pháp

2-8-2011


I.3. NHỮNG CƯ SĨ ĐẦU TIÊN



Cận sự nam đầu tiên trong Phật giáo qui y nhị bảo.

Hai thương gia Tapussa và Bhallika - Vào tuần lễ thứ bảy sau khi đắc đạo, Đức Thế Tôn ngự tại cội cây Rājāyatana. Lúc bấy giờ có hai thương gia tên Tapussa và Bhallika trên đường về quê, từ Ukkhala đi ngang qua chỗ Đức Phật ngự, khi ấy hai thương gia này được một vị chư thiên vốn là quyến thuộc của họ, đã mách bảo rằng:

"Các bạn ơi, có Đức Thế Tôn vừa giác ngộ, Ngài đang ngự tại cội cây Rājāyatana; các vị hãy đi đến Đức Thế Tôn ấy và cúng dường với bánh bột và mật ong. Sự cúng dường này sẽ mang lại cho các bạn lợi ích an vui lâu dài".

Được nghe mách bảo, hai thương gia này lòng tràn đầy vui sướng, vội dừng xe, sắp xếp bánh và mật ong, rồi cùng nhau đi đến chỗ Đức Phật ngự dưới tàn cây Rājāyatana. Đến nơi hai người đã kính cẩn đảnh lễ Đức Phật và dâng lên Ngài thực phẩm bánh và mật ong:

"Bạch Đức Thế Tôn, xin Ngài hãy thọ nhận lễ phẩm của chúng con, bánh và mật ong cho chúng con được sự lợi ích an vui lâu dài".

Đức Thế Tôn suy nghĩ:

"Các đấng Như Lai không thọ nhận thực phẩm bằng tay, vậy ta nên thọ nhận bánh và mật ong này bằng cái chi đây?

Khi ấy, tứ đại thiên vương biết được ý nghĩ của Đức Thế Tôn từ bốn hướng hiện ra mang bốn cái bát đá dâng lên Đức Phật, bạch rằng:

"Bạch Đức Thế Tôn, xin ngài hãy thọ nhận bánh vào bốn cái bát đá này".

Đức Thế Tôn đã lấy bốn cái bát và chú nguyện thành một, xong ngài đã thọ nhận bánh và mật bằng cái bát đá đặc biệt ấy rồi thọ thực.

Sau khi Đức Thế Tôn thọ thực xong hai thương gia Tapussa và Bhallika đảnh lễ dưới chân Ngài và xin qui y:

"Bạch Đức Thế Tôn, chúng con xin qui y Đức Thế Tôn và qui y giáo pháp. Xin Đức Thế Tôn thu nhận chúng con là cận sự nam, kể từ hôm nay đến trọn đời qui ngưỡng".

Vào thời điểm này chưa có Tăng bảo nên họ chỉ qui y Phật và Pháp. Đây là những cận sự nam đầu tiên trong Phật giáo đã qui y nhị bảo (Phật bảo và Pháp bảo).

Cận sự nam đầu tiên trong Phật giáo qui y Tam bảo

Thân phụ của công tử Yasa - Sau khi Đức Thế Tôn Chuyển Pháp Luân tại Lộc Uyển Isipatana gần thành Bārāṇasī, đã tiếp độ được năm tỳ kheo Koṇḍañña (Kiều Trần Như). Bây giờ đã có đủ tam Bảo là Phật bảo, Pháp bảo, và Tăng bảo.

Lúc ấy tại thành Bārāṇasī (Ba-la-nại) có ông trưởng giả đại phú hộ, là thân phụ của công tử Yasa.

Một ngày kia công tử Yasa khởi lên tư tưởng chán mùi tục lụy, vì đêm khuya chợt thức giấc trông thấy cảnh các cô hầu ngủ say trên sàn nhà, mỗi cô lộ ra tật xấu, làm mất hết vẻ đẹp thần tiên, để hiện ra cảnh tưởng ê chề chẳng khác nào nghĩa địa tha ma. Công tử chán ngán và âm thầm bỏ nhà ra đi giữa đêm thanh vắng, hướng về khu rừng Isipatana.

Vừa đi, công tử Yasa vừa đi vừa thốt: "Ôi! đời quá bẩn chật, quá phiền toái'. Chàng vừa đến ven rừng thì Đức Phật đã ở tại đấy chờ đợi chàng. Khi nghe lời than thở của công tử Yasa, Đức Phật khẽ bảo: "Hỡi Yasa, ở đây không bẩn chật, ở đây không phiền toái. Hãy đến đây, hỡi Yasa! hãy ngồi xuống, ta sẽ thuyết pháp cho ngươi nghe".

Công tử Yasa rất ngạc nhiên khi nghe Đức Phật bảo, chàng bỗng dưng cảm thấy dạt dào niềm hoan hỷ. Chàng liền cởi đôi hia vàng và đi chân trần đến gần Đức Phật, quì xuống đảnh lễ Ngài và ngồi qua một bên. Đức Thế Tôn thuyết pháp cho công tử nghe, Ngài đã khích lệ, đã khai thị với pháp thoại tuần tự. Liền đó công tử Yasa đã chứng quả Nhập lưu.

Rạng sáng hôm ấy, ông trưởng giả thân phụ của Yasa đi tìm con. Ông đi hướng về khu rừng Isipa-tana. Bất chợt cũng gặp Đức Thế Tôn đang ngồi dưới một tàn cây trong khu rừng ấy. Lúc này, Đức Thế Tôn đã dùng thần thông che khuất công tử Yasa, nên ông trưởng giả không nhìn thấy con mình đang ngồi bên Đức Phật.

Ông trưởng giả đến gần Đức Phật, chào Ngài và hỏi thăm Ngài có nhin thấy một vị công tử đi qua đây không? Đức Phật bảo ông ta hãy ngồi xuống đây trong giây lát sẽ gặp vị công tử ấy. Ông trưởng giả nghe lời và ngồi xuống, Đức Phật đã thuyết pháp cho ông nghe, với pháp thoại tuần tự, Ngài đã khích lệ, khai thị pháp nhãn cho ông trưởng giả, ông đắc quả Tu đà huờn ngay khi đó. Ông đảnh lễ Đức Phật và xin qui y:

"Bạch Đức Thế Tôn, thật kỳ diệu! Bạch Đức Thế Tôn, ví như người lật lên vật bị úp, hay như người mở ra vật bị gói kín, hoặc như người chỉ đường cho kẻ lạc lối, hoặc như người mang đèn vào bóng tối cho kẻ có mắt được thấy cảnh sắc; cùng thế ấy, giáo pháp đã được Đức Thế Tôn dùng nhiều phương tiện giảng giải. Bạch Đức Thế Tôn, con xin qui y Đức Thế Tôn, qui y Giáo pháp, qui y Tăng chúng; mong Đức Thế Tôn hãy nhận con là cận sự nam đã qui y kể từ hôm nay đến mạng chung".

Đây là người cận sự nam đầu tiên trong Phật giáo đã qui y Tam bảo (Phật bảo - Pháp bảo - Tăng bảo).

Cận sự nữ đầu tiên trong Phật giáo qui y Tam bảo.

Thân mẫu và hiền thê của công tử Yasa -Trong khi Đức Phật đang thuyết pháp cho ông trưởng giả thì công tử Yasa đã thẩm nghiệm lại pháp và đắc quả A la hán. Đức Phật biết rõ điều đó nên Ngài thu hồi thần thông, ông trưởng giả nhìn thấy con trai của mình, ông rất vui và bảo con trai hãy trở về nhà để an lòng người mẹ.

Đức Phật đã nói với ông trưởng giả rằng: Yasa, con trai của ông đã đạt đến vô lậu tâm giải thoát thì không thể trở lui lại đời sống thế tục nữa. Nghe vậy ông trưởng giả rất vui lòng vì ông là bậc Dự Lưu nên nhận thức rõ điều đó. Rồi ông trưởng giả đã thỉnh Đức Phật cùng các tỳ kheo đến nhà thọ thực ngày mai, Đức Phật nhận lời, ông đảnh lễ Ngài và ra về. Sau đó, Đức Phật cho phép Yasa thọ phẩm mạo tỳ kheo bằng cách "Ehi bhikkhu" (Thiện lai tỳ kheo).

Sáng hôm sau, Đức Thế Tôn cùng tôn giả Yasa là thị giả, đã đi đến nhà của ông trưởng giả, cha của tôn giả Yasa.

Người mẹ và người vợ của ngài Yasa đã bước ra đảnh lễ Đức Phật. Đức Phật thuyết tuần tự pháp thoại và giảng về bốn chơn lý cho những nữ cư sĩ ấy nghe. Cuối thời pháp cả hai người đều chứng quả Dự lưu, đạt được lòng tin bất động nơi Tam bảo.

Khi đã đắc pháp nhãn ly trần vô cấu, họ đảnh lễ Đức Phật, xin qui y:

"Bạch Đức Thế Tôn, thật kỳ diệu! Bạch Đức Thế Tôn, cũng ví như người lật lên vật bị úp, hay người mở ra vật bị gói kín, hoặc như người chỉ đường cho kẻ lạc lối, hay như người đem đèn vào bóng tối cho kẻ có mắt thấy được cảnh sắc; cùng thế ấy, giáo pháp đã được Đức Thế Tôn dùng nhiều phương tiện giảng giải. Bạch Đức Thế Tôn, chúng con xin qui y Đức Thế Tôn, qui y Giáo pháp, qui y Tăng chúng, mong Đức Thế Tôn hãy nhận chúng con là những cận sự nữ đã qui y kể từ hôm nay đến mạng chung" ...

Đây là những người cận sự nữ đầu tiên trong Phật giáo đã qui y Tam bảo.

I.4. NHỮNG CƯ SĨ CÓ CÔNG HẠNH LỚN

Người cư sĩ xây dựng ngôi chùa đầu tiên trong Phật giáo

Vua Bimbisāra (Bình Sa Vương) - Khi thái tử Sĩ-đạt-ta thoát ly đời sống thế tục để đi tìm chơn lý, trở thành một đạo sĩ. Buổi đầu đạo sĩ Gotama (đó là danh gọi thái tử Sĩ-đạt-ta, khi Ngài xuất gia làm đạo sĩ) chưa khổ hạnh, Ngài khất thực để nuôi mạng. Ngài chọn trú xứ tại khu rừng tĩnh mịch gần thành Rājagaha (Vương xá) của xứ Magadha (Ma kiệt đà). Khi ấy vua Bimbisāra đang trị vì xứ sở này, kinh đô của vua là thành Rājagaha.

Một hôm đức vua trông thấy một vị đạo sĩ đang đi khất thực trên đường phố, với dáng vẻ uy nghiêm khiêm tốn, nhưng biểu hiện tính cách quí phái sang trọng. Đức vua lấy làm cảm kích nên sai người đi thăm dò. Biết được nơi trú ngụ của đạo sĩ Gotama, nhà vua bèn khởi giá cùng đám tùy tùng tìm đến viếng đạo sĩ hỏi thăm Ngài là ai? sanh trưởng ở xứ nào? đạo sĩ Gotama trả lời nhà vua về quê hương và dòng dõi xuất thân của Ngài. Nhà vua càng nể trọng đạo sĩ và khẩn thỉnh Ngài sau khi thành chánh quả, trở lại viếng thăm vương quốc Magadha.

Đúng theo lời hứa, sau khi đắc quả Chánh Đẳng Giác, Đức Phật cùng đi với ngàn đệ tử A la hán từ Gāyā đến Rājagaha. Nơi đây, Ngài ngự tại điện Suppatittha, trong khu rừng kè (Laṭṭhivana).

Tin lành đến tai vua Bimbisāra và danh tiếng tốt đẹp của Đức Phật cũng đã được lan truyền cùng khắp vương quốc. Đức vua bèn dẫn theo đám đông quần thần đi đến viếng thăm Đức Phật.

Nhà vua đến nơi cung kính đảnh lễ Đức Phật và ngồi xuống một bên, các quần thần của vua, có người đảnh lễ, có người xá chào, có người thăm hỏi xã giao với Đức Phật, rồi tất cả đều ngồi xuống.

Đoàn Tăng sĩ một ngàn vị đi theo Đức Phật chính là nhóm đạo sĩ thờ lửa do Tôn giả Uruvelakassapa (Ca-Diếp) lãnh đạo, bây giờ đã trở thành đệ tử Phật.

Lúc ấy hội chúng tùy tùng của vua có sự suy nghĩ phân vân, giữa Đức Phật và Tôn giả Ca-Diếp, ai là thầy, ai là đệ tử. Đức Phật biết được ý nghĩa của họ nên Ngài đã hỏi Tôn giả Ca-Diếp tại sao không thờ lửa nữa, để giải tỏa tâm tư của hội chúng. Tôn giả Ca-Diếp hiểu ý Đức Phật, liền giải thích rằng vì mình đã thấy được con đường đưa đến an vui giải thoát nên đã bỏ sự thờ lửa vì việc đó không bổ ích. Nói xong Tôn giả Ca-Diếp khấu đầu đảnh lễ dưới chân Đức Phật và xác nhận:

"Bạch Đức Thế Tôn, Ngài là Đạo sư của con, con là đệ tử của Ngài".

Nghe vậy tất cả mọi người đều hoan hỷ, dứt nghi nan. Đức Phật hiểu rõ tâm tư của hội chúng đã sẵn sàng lãnh hội pháp, Ngài giảng cho họ nghe tuần tự pháp thoại, làm cho họ được hân hoan.

Nghe Đức Phật thuyết pháp, ánh sáng chân lý đã rọi đến mọi người. Đức vua và hội chúng tùy tùng đắc được quả vị Tu đà huờn; tất cả đều xin qui y Tam bảo, thành những cận sự nam. Sau đó, vua Bimbisāra cung thỉnh Đức Phật và chư Tăng vào hoàng cung thọ trai ngày hôm sau.

Hôm sau, Đức Phật và chư Tăng ngự đến hoàng cung thọ thực. Khi các ngài đã dùng xong, đức vua đảnh lễ Phật và ngỏ lời xin hiến dâng một nơi làm chỗ trú ngụ của Đức Phật và Tăng chúng, đức vua lại muốn biết nơi nào là thích hợp cho ngôi tu viện. Đức Phật trả lời:

'Một nơi vắng vẻ không xa cũng không gần thành thị, để những ai muốn, có thể đi đến dễ dàng, một nơi ban ngày không ồn ào, ban đêm yên tĩnh, khoảng khoát và kín đáo, nơi ấy sẽ thích hợp thiền tịnh".

Đức vua Bimbisāra nghĩ đến khu Trúc Lâm (Veluvana) của mình hội đủ những điều kiện thích hợp cho ngôi tu viện nên đã tác bạch hiến cúng Trúc Lâm này đến Đức Phật và chư Tăng. Đức Phật nhận lời, và cũng chính do duyên khởi này mà Đức Phật đã cho phép Tăng chúng nhận chùa.

Khu Trúc Lâm từ đó có tên gọi là Veluvanārāma (Trúc Lâm Tự), và đây chính là ngôi tự viện đầu tiên trong Phật giáo do đức vua Bimbisāra hiến dâng.

Người cư sĩ hộ độ Tam bảo tích cực

Trưởng giả Anāthapiṇḍika (Cấp-cô-độc) - Tại kinh thành Sāvatthi (Xá-vệ) có một trưởng giả triệu phú tên Sudatta tính tình hào phóng, quảng đại. Ông có hạnh bố thí đặc biệt, thường xuyên phân phát giúp đỡ cho các kẻ nghèo không nơi nương tựa. Chính vì vậy mà người đời gọi tặng ông với mỹ danh Anāthapiṇḍika (Cấp-cô-độc) để nói lên công hạnh bố thí của ông.

Trưởng giả Anāthapiṇḍika gặp được Phật pháp do một nhân duyên kỳ ngộ.

Một ngày nọ, trưởng giả Anāthapiṇḍika có việc đi từ Sāvatthī đến Rājagaha viếng thăm người anh vợ, thấy người anh đang bận rộn chuẩn bị một cuộc lễ, ông nghĩ là người anh mình sẽ tổ chức tiệc mừng, hoặc là cung nghinh đức vua ngự giá đến nhà. Khi hỏi ra mới biết người anh thiết lễ trai đàn cúng dường Đức Phật và chư Tăng vào ngày mai. Thoạt nghe danh từ "Buddha" (vị giác ngộ, vị Phật), ông Anāthapiṇḍika rộn lên niềm hoan hỷ và thiết tha muốn được diện kiến Đức Phật.

Đêm đó, ông không thể chợp mắt, lòng cứ nao nao phấn khích; cuối cùng không chờ đến sáng nữa, ông đã ra đi trong đêm vắng hướng về Sītavana, khu rừng nơi Đức Phật đang trú ngụ. Một dạ xoa tên Sivakha đã dùng thần lực thu ngắn con đường cho ông, và những lúc ông toan thối chuyển cuộc hành trình vì sợ hãi đêm tối thì dạ xoa đã khuyến khích, trấn an ông lấy lại can đảm và tiếp tục bước đi.

Cuối cùng, ông Anāthapiṇḍika cũng đã đến khu rừng Sītavana, có Đức Phật đang đi kinh hành ngoài trời, Ngài biết ông sẽ đến. Đức Phật gọi tên tộc của ông, Sudatta, và bảo ông đến gần Ngài.

Ông Anāthapiṇḍika hết sức vui mừng được yết kiến Đức Phật. Kế đến Đức Phật thuyết pháp cho ông nghe. Sau khi nghe pháp, ông Anāthapiṇḍika đã chứng quả Dự lưu (Tu đà huờn), ông xin qui y Tam bảo. Ông đảnh lễ Phật và trở về nhà người anh.

Khi Đức Phật và chư Tăng đến nhà người anh của ông Cấp-cô-độc khẩn khoản thỉnh cầu Đức Phật ngự về kinh thành Sāvatthī. Quê hương của ông, và ông cũng thỉnh Ngài nhập hạ ở đây. Đức Phật đã nhận lời, nhưng Ngài gợi ý với ông rằng: chư Phật chỉ thích ở nơi vắng vẻ.

Ông Cấp-cô-độc thưa rằng mình đã hiểu ý Đức Phật. Ông từ giã gia đình người anh và trở về Sāvatthī vội vã.

Về đến Sāvatthī, ông Cấp-cô-độc tìm một nơi thích hợp để cất chùa. Ông đã tìm được khu vườn của thái tử Jeta, là nơi lý tưởng, thích hợp. Ông đã mua lại khu vườn ấy với giá "Lát nền bằng vàng", nghĩa là trải vàng trên đất diện tích bao nhiêu thì lấy bấy nhiêu.

Để có được diện tích rộng xây cất ngôi chùa Kỳ Viên (Jetavana), ông Cấp-cô-độc đã bỏ ra 18 koṭi tiền vàng (1 koṭi là mười triệu) để mua đất. Và bỏ ra 18 koṭi tiền vàng nữa để xây cất ngôi đại tự danh tiếng Jetavanamahāvihāra. Chính nơi này Đức Phật đã an cư mười chín lần trong cuộc đời Ngài, và phần lớn các bài pháp cũng được Đức Phật thuyết tại đây.

Trong sớ giải Aṅguttaranikāya và Dhammapada ghi rằng: ông Cấp-cô-độc hộ độ vật thực đến chư Tỳ kheo, mỗi ngày 500 vị; trong nhà ông luôn luôn có 500 chỗ ngồi được sắp đặt sẵn cho bất cứ vị khách Tăng nào từ xa đến không kip thời gian đi khất thực, ghé qua nhà ông để thọ trai.

Đồng thời ông Cấp-cô-độc cũng dựng lên những ngôi phước xá ở bốn cổng thành Sāvatthī để bố thí đến những tân khách, những dân chúng nghèo khổ, tàn tật, cô độc không chỗ dung thân.

Gia đình của trưởng giả Cấp-cô-độc có bốn người con, ba gái là tiểu thư Mahāsubhaddā, Cūlasubhaddā, và Sumānā, cùng một trai là công tử Kāla. Ba nàng tiểu thư đã tích cực giúp cha trong việc hộ độ cúng dường Tăng chúng; cả ba đều đắc thánh quả hữu học như cha mình, riêng về nàng Sumānā thì đắc Tư đà hàm quả vị cao hơn ông Cấp-cô-độc.

Công tử Kāla thì thời gian đầu lêu lổng, chỉ biết tiêu xài ăn chơi, không có niềm tin Phật pháp. Về sau, lúc người cha cho tiền thuê cậu ta đi nghe Đức Phật thuyết pháp, duyên lành chín muồi công tử Kāla chứng quả Dự lưu, đạt được niềm tin bất thối nơi Tam bảo. Người con dâu của ông Cấp-cô-độc, vợ của công tử Kāla, buổi đầu cũng thế, kiêu ngạo và cư xử tệ bạc với người trong gia đình nhà chồng; nhưng về sau nhờ nghe Đức Phật thuyết bài pháp về bảy hạng vợ, nàng dâu ấy đã cải tà qui chánh và trở nên hiền thiện.

Trưởng giả Cấp-cô-độc là một người hào sảng hảo tâm, một người chủ gia đình gương mẫu, và là một đại thí chủ bậc nhất hộ độ Tăng chúng vào thời Đức Phật. Ông có vị trí quan trọng trong hàng cư sĩ Phật giáo với hạnh bố thí xả tài.

Đại tín nữ Visākhā - Một nữ cư sĩ cũng chỉ đắc quả Tu đà huờn như nhiều nữ cư sĩ khác vào thời Đức Phật, nhưng lại là một tấm gương sáng cho hàng cận sự nữ.

Nếu kể hàng thiện nam đại thí chủ là ông Anāthapiṇḍika (Cấp-cô-độc), thì trong hàng tín nữ đại thí chủ chính là bà Visākhā. Mặc dù vai vế và tuổi tác thì bà Visākhā nhỏ hơn ông Cấp-cô-độc, bởi em gái út của bà Visākhā là con dâu của ông Cấp-cô-độc.

Bà Visākhā là một nữ nhân đại phước, bà đứng đầu trong hàng tín nữ, được Đức Thế Tôn xác nhận địa vị tối thắng về hộ độ Tăng chúng, trong hàng cận sự nữ (Dāyikānaṃ aggā).

Bà là con gái của trưởng giả Dhanañjaya, và là cháu nội của nhà đại phú Meṇḍaka ở thành Bhaddiya xứ Aṅga. Thời thơ ấu bà Visākhā sống với gia đình tại thành Bhaddiya xứ Aṅga.

Vào năm bà được bảy tuổi, Đức Phật có lần ngự đến Bhaddiya cùng đoàn chư tăng. Bà được nhân duyên diện kiến Đức Phật và nghe Ngài thuyết pháp. Nghe pháp xong Visākhā chứng đắc thánh quả Dự Lưu.

Thế rồi bà đã theo cha di cư đến sống ở Sāketa một thị trấn thuộc Kosala.

Bà Visākhā lập gia đình vào năm mười sáu tuổi. Trong sớ giải nói rằng bà là một phụ nữ hội đủ năm vẻ đẹp thanh xuân dù đến khi luống tuổi. Ngoài ra năm vẻ đẹp ấy, bà Visākhā lại còn có trí tuệ hơn người, sáng suốt trong mọi việc nhất là trong phạm vi tinh thần đạo đức. Điều đặc biệt không ngờ được là một mỹ nhân dịu dàng tha thướt như vậy mà lại có sức mạnh phi thường hơn cả nam nhân.

Gia đình chồng của bà là một nơi môn đăng hộ đối trong thành Sāvatthī, thế nhưng họ theo đạo Ni- Kiền-Tử, không có niềm tin Phật pháp, một điều nghịch lại với truyền thống tín ngưỡng của gia đình bên ruột của bà, và bà cảm thấy rất khó chịu vì bà là một thánh cư sĩ đệ tử Phật. Cha chồng của bà Visā-khā, trưởng giả Migāra, một tín đồ của nhóm đạo sĩ lõa thể, ông thường buộc nàng dâu phải phục vụ các đạo sĩ ấy khi họ được mời đến cúng dường.

Một lần, bà Visākhā lúc trông thấy các đạo sĩ lõa thể, bà đã tỏ thái độ không bằng lòng và bỏ vào trong, khiến ông trưởng giả tức giận kết tội nàng dâu vô phép. Bà Visākhā bình tĩnh thẳng thắn ứng đối. Ông cha chồng đuối lý đành đổi giận làm vui. Nhân cơ hội ấy bà đã xin phép cha chồng cho bà được tự do sinh hoạt theo truyền thống tín ngưỡng của bà. Trưởng giả Migāra chấp thuận.

Bà đã thỉnh Đức Phật và chư Tăng về nhà cúng dường. Đức Phật đã thuyết pháp sau bữa ăn. Ông trưởng giả Migāra ngồi sau bức rèm nghe trộm, nghe xong thời pháp ông giác ngộ và chứng quả Tu đà huờn. Ông bước ra đảnh lễ Đức Phật, và bày tỏ lòng tri ân vô hạn đối với nàng dâu quí đã dẫn dắt ông vào con đường giải thoát, và thật cảm động, kể từ ngày ấy ông xem nàng dâu Visākhā như một người mẹ. Cũng chính vì vậy mà đứa cháu nội đầu lòng của ông chào đời, ông đặt tên là Migāra, tên của ông. Về sau người ta gọi Bà Visākhā là Migāramātu (mẹ của Migāra) được hiểu theo hai nghĩa.

Nhờ khôn khéo, có trí tuệ và nhẫn nại, bà dần dần cảm hóa mọi người, và biến đổi gia đình bên chồng trở thành một gia đình Phật tử có chánh tín, sống tràn ngập hạnh phúc.

Bà Visākhā hằng ngày cúng dường chư Tăng tại nhà, luôn luôn có 500 vị Tỳ kheo. Buổi chiều, bà thường đến chùa nghe pháp, sau đó đi quanh chùa để xem chư Tăng có cần dùng chi, luôn cả chư tỳ kheo ni.

Bà Visākhā là người hộ độ Tăng chúng tín cẩn và có tâm lo lắng an nguy của chư Tăng. Chính vì thế đã có nhiều sự kiện liên quan đến sự giới luật tăng già, bà được mời có mặt để can thiệp, đưa ý kiến hoặc thẩm xét, như vụ án tỳ kheo ni mẫu thân của đại đức Kumārakassapa chẳng hạn.

Bà Visākhā đã xin Đức Phật chấp nhận cho bà tám đặc ân trong việc hộ độ chư Tăng tại Sāvatthī:

1- Dâng y tắm mưa đến chư tăng, suốt đời bà.
2- Cúng dường những khách Tăng vừa mới đến.
3- Cúng dường các vị Tăng sắp rời khỏi.
4- Dâng thực phẩm đến những vị Tăng đau bệnh.
5- Dâng thực phẩm đến những vị Tăng nuôi bệnh.
6- Dâng thuốc men đến vị Tăng bị bệnh.
7- Dâng cháo sáng đến chư tăng.
8- Dâng y đến chư tỳ kheo ni.

Đức Phật chấp nhận cho bà tám đặc ân này. Có một hôm bà Visākhā cùng người nữ tỳ đi đến chùa đảnh lễ Phật và nghe pháp. Khi đến cổng chùa bà cởi chiếc áo choàng đính ngọc quí giá, gói lại và giao cho người nữ tỳ cầm giữ vì bà nghĩ là mặc sang trọng trước mặc Đức Phật là không phải lẽ. Sau khi nghe pháp ra về, người nữ tỳ đã để quên lại áo choàng ấy ở chùa, Tôn giả Ānanda đã làm theo lời dạy của Đức Phật, nhặt cất giữ tạm để chờ trả lại cho chủ.

Khi bà Visākhā hay rằng người nữ tỳ đã bỏ quên gói đồ trong chùa thì bà sai trở lại lấy nếu chưa có ai chạm đến. Người nữ tỳ trở lại chùa, và về trình sự việc ngài Ānanda đã tạm cất giữ. Bà liền đến hầu Đức Phật và ngỏ ý muốn làm một thiện sự bằng số tiền bán chiếc áo choàng ấy, Đức Phật dạy xây cất một ngôi chùa ở cổng vào phía đông thành Sāvatthi. Bà rất hoan hỷ và tự thân mua lại chiếc áo choàng, rồi dùng số tiền ấy kiến tạo một ngôi chùa đặt tên là Pubbārāma (Đông Phương Tự) cúng dường đến Đức Phật.

Bà Visākhā sống thọ đến 120 tuổi. Bà có rất nhiều con cháu, tất cả đều hiếu thảo. Thật là một người có đầy đủ phúc lộc thọ.

Lương y Jīvaka - Một vị thầy thuốc tài giỏi, giàu tâm đạo, thường xuyên ở gần Đức Phật để chăm lo sức khỏe Ngài, và trị bệnh cho chư Tăng.

Ông Jīvaka còn được gọi bằng một tên nữa là Jīvakakomārabhacca.

Jīvaka là con trai của nàng Sālavatī, một kỹ nữ trong thành Rājagaha. Khi mới chào đời, bị bỏ rơi trên một đống rác bên đường, nằm trong cái thùng. Hoàng tử Abhaya con vua Bimbisāra, tình cờ đi ngang qua phát hiện được đứa bé còn sống nên mang về nuôi. Vì hài nhi "Còn sống" nên hoàng tử đặt tên là "Jīvaka", vì được hoàng tử nuôi nấng nên được gọi là "Komārabhacca".

Lớn lên ông theo học nghề y với vị danh y Takkasilā hết bảy năm, và thành tài. Ông trở thành vị thầy thuốc giỏi, đặc biệt là khoa phẫu thuật. Sách ghi rằng ông đã hai lần thành công mỹ mãn cuộc giải phẫu cho một nhà triệu phú mắc bệnh nhức đầu kinh niên. Ông cũng từng được vua Bimbisāra cử đi đến xứ Ujjeni để trị bệnh cho vua Candappajjota, thành công.

Lương y Jīvaka có duyên lành với Phật pháp, ông đã qui y Tam Bảo và chứng quả Tu đà huờn.

Sau khi vua Bimbisāra băng hà, Thái tử Ajātasattu lên ngôi, ông vẫn tiếp tục được lưu dụng, và ông đã có lần tiến dẫn vua Ajātasattu đến diện kiến Đức Phật ở tại khu rừng xoài Ambavana để nhà vua có dịp cải hối về tội ác giết cha soán ngôi, quay đầu hướng thiện trong Phật Pháp. Cũng nhờ vậy mà vua Ajātasattu bớt đi mặc cảm tội lỗi và trở thành một Phật tử thuần thành. Chính nhà vua đã bảo trợ chư thánh Tăng kết tập kinh điển lần thứ nhất sau khi Đức Phật viên tịch ba tháng.

Ông Jīvaka đã hiến khu rừng xoài của mình cho Đức Phật và chư Tăng, ông đã xây cất một tu viện nơi ấy vì thấy rằng Veḷuvana (Trúc Lâm) quá xa để ông đến chăm sóc sức khỏe của Tăng chúng.

Mỗi ngày ông đến viếng thăm Đức Phật hai lần và chăm sóc sức khỏe cho Ngài. Ông cũng nhiệt tâm lo chữa trị cho Tăng chúng bất cứ vị tỳ kheo bị bệnh đều được ông điều trị, không hề xao lãng với phận sự, mặc dù ông rất bận rộn với công việc xã hội.

Trong Luật tạng có ghi nhận một số vấn đề có liên quan đến danh y Jīvaka.

Như việc ông đề nghị Đức Phật ban hành luật thu nhận người xuất gia vào Tăng chúng phải hạn chế những người mắc các thứ bệnh lây nhiễm. Nguyên nhân là thời đó có những người mắc bệnh hiểm nghèo, họ đã xuất gia làm tỳ kheo để được lương y Jīvaka điều trị miễn phí và tận tình (Vin.I.71).

Cũng theo lời yêu cầu của ông, nên Đức Phật đã cho phép các tỳ kheo hoạt động thể dục như đi bộ, quét nhà v.v... để có sức khỏe (Vin.II.119).

Ông Jīvaka được Đức Phật xác nhận là một cận sự nam được dân chúng kính mến nhất (aggaṃ puggalappasannānaṃ) (A.I.26).

Vua Pasenadi Kosala (Ba-Tư-Nặc) - Một vị vua mà tên tuổi gắn bó với cuộc đời hoằng pháp của Đức Phật, hơn các vị vua khác, vì ở Sāvatthī (Xá vệ) có hai ngôi chùa mà Đức Phật đã hai mươi lăm lần nhập hạ tại đó, mười chín lần tại Jetavanavihāra, sáu lần tại Pubbārāma.

Vua Pasenadi là vị vua xứ Kosala (Kiều Tát La) kinh đô của vua là thành Sāvatthī (Xá Vệ), sống cùng thời Đức Phật.

Ngài là con trai của vua Mahākosala, từ thuở nhỏ được học các học nghệ tại trường Takkasilā, nơi đào tạo những nhân tài hoàng tộc đương đại từ các xứ sở như thân vương Licchavī Mahali và thái tử dòng Malla là Malla Bandhula - sau trở thành thống soái của vua Pasenadi.

Từ Takkasilā trở về Kosala, phụ vương ngài rất hài lòng về tài năng của ngài qua nhiều môn nghệ thuật nên đã nhường ngôi vua lại cho ngài.

Khi tước vị vương quyền, vua Pasenadi đem hết tài nghệ cùng với nhiệt tâm để điều hành vận nước được hùng cường, đồng thời nhà vua thực hiện chính sách bang giao tốt đẹp với các nước láng giềng, đức vua cũng làm phong phú đời sống nội tâm bằng cách tìm đến thân giao với các bậc hiền trí.

Vua Pasenadi đã trở thành tín đồ Phật giáo trong thời kỳ đầu hoằng hóa giáo pháp của Đức Phật. Ngài là người thân tín và phụng sự Đức Thế Tôn cho đến lúc mạng chung, mặc dù nhà vua không phải là vị thánh cư sĩ như vua Bimbisāra.

Vua Pasenadi cùng chạn tuổi với Đức Phật, nhưng nhà vua hết sức tôn kính Đức Phật. Trong kinh mô tả mỗi lần vua đến viếng thăm Đức Phật, đã đảnh lễ thủ phục sát dưới chân Ngài và úp mặt trên đôi bàn chân của Ngài.

Cũng có thể vì Đức Phật và vua Pasenadi cùng tuổi với nhau, do đó đã có những cuộc luận đàm diễn ra thân mật, và trung thực thẳng thắn. Trong Saṃ-yuttanikāya phẩm Tương Ưng Kosala, đã ghi lại gồm 25 giai thoại, mỗi giai thoại là một phương đạo đức do vua Pasenadi nêu lên vấn đề với Đức Phật hoặc Đức Phật đưa vấn đề giảng cho vua Pasenadi. Những đề tài bàn luận ấy có nhiều và khác biệt nhau.

Đức vua tận tụy trong việc bảo vệ thanh danh của Đức Phật vàTăng chúng, áp đảo mọi hành động của kẻ xấu cố tình bôi nhọ Phật giáo, như trong vụ án nàng Sundarīnandā là điển hình.

Đức vua cũng tích cực can thiệp những sự việc gút mắc có liên quan Tăng chúng nhằm để giữ vững sự trong sạch của Tăng đoàn giáo hội, như trường hợp của vị tỳ kheo ni mẫu thân ngài Kumārakassapa, hoặc như chuyện tỳ kheo Koṇḍadhāna.

Trong giới luật của tỳ kheo có điều luật Ưng Đối Trị như việc tắm giỡn nước, cũng nhờ sự gợi ý của vua Pasenadi với Đức Phật. Hoàng cung vua nhìn thẳng ra dòng sông Aciravatī, một lần vua đứng trên sân thượng thấy các vị tỳ kheo tắm giỡn nước dưới sông không đẹp mắt. Nhà vua đã khéo léo bạch trình lên Đức Phật việc ấy, và Đức Phật nhân đó chế định học giới về sự giỡn nước của Tỳ kheo.

Tuy đã trở thành đệ tử Phật nhưng vua Pase-nadi vẫn không bỏ được thói quen đảnh lễ những ngoại đạo sư khác. Nhà vua vẫn có sự ái mộ và khoan dung đối với các giáo chủ ngoại giáo hay các đệ tử của họ.

Vì chưa đạt được thánh tri kiến nên nhà vua có những tư tưởng lệch lạc với chánh pháp, đôi khi đã có những hành động sai lầm, suýt gây nên tội ác.

Có lần một cuộc lễ tế thần phải giết thật nhiều súc vật và đồng nhi, mà chính vua Pasenadi cho xúc tiến và đích thân chuẩn bị chu đáo. May nhờ có hoàng hậu Mallikā của vua can ngăn và thuyết phục đức vua hãy đình chỉ tế đàn ấy để đi đến gặp Đức Phật.

Một câu chuyện khác ghi lại rằng, đức vua vì luyến ái một phụ nữ khi ngài cưỡi ngựa dạo chơi trong kinh thành. Khi biết được nàng ấy đã có chồng, để chiếm đoạt người phụ nữ, nhà vua đã ra lệnh cho người chồng phải ra đi vào ban chiều để đem về cho được một loại hoa súng quí hiếm và đất sét trồng hoa súng ở một nơi cách xa kinh thành hàng trăm do tuần, thời hạn phải có mặt là ngày hôm sau. Nếu trễ thời hạn sẽ bị tội chết. Người đàn ông cố gắng trải qua cuộc hành trình, rạng sáng đã về đến thành nhưng cổng thành có lệnh vua phong tỏa không mở, người ấy sợ hãi lẩn trốn vào chùa Jetavana. Nhà vua suốt đêm cũng không an giấc được vì sự ái ố của mình. Sáng dậy, vua ra khỏi thành và đến Jetavana viếng thăm Đức Phật. Tình cờ gặp được người đàn ông ấy cũng đang ngồi hầu Đức Phật. Đức Phật nghe cả hai kể lại tâm trạng của mình, Ngài đã thuyết pháp giải tỏa sự phiền toái của đôi bên.

Vua Pasenadi vì ăn uống vô độ nên thường xuyên bị bệnh. Một lần vua đến thăm Đức Phật, Đức Phật khuyên nhà vua hãy tiết độ lại trong việc ăn uống, Ngài dạy cho vua một bài kệ làm điều răn về vấn đề ẩm thực. Vua Pasenadi đã thực hành theo và khỏe mạnh lại như xưa. Vua càng kính thương Đức Phật.

Vua Pasenadi may mắn hơn các vị vua khác được nghe Đức Phật thuyết cho nghe rất nhiều bài pháp. Trong Saṃyuttanikāya, phẩm Kosalavagga ghi lại đầy đủ các bài pháp như vậy.

Đức vua cũng là một bậc đại thí chủ vào thời Đức Phật. Nhờ sự cố vấn của hoàng hậu Mallikā, vua đã tổ chức lễ cúng dường Đức Phật và chư Tăng thật long trọng, với 500 con voi cầm lọng đứng hầu Tăng chúng; đức vua tranh đua với dân chúng, cuối cùng thì dân chúng phải nhượng bộ không theo kịp. Cuộc đại thí này còn gọi là "Đại lễ vô song thí".

Đức vua đã tỏ ra hào phóng, khi biết được vị đại thần Juṇha là người có tâm hoan hỷ trong cuộc bố thí của mình, vua bèn ban thưởng trọng hậu, đồng thời cho đại thần Juṇha làm vua bảy ngày tùy thích làm việc bố thí. Về phía vị đại thần Kāḷa, là người tỏ ra bất mãn với việc bố thí này của nhà vua, nên vua đã truất phế chức vụ và trục xuất ra khỏi vương quốc Kosala.

Theo sớ giải Jātaka thì vua Pasenadi có xây dựng một ngôi tịnh xá ở trước chùa Jetavana để cúng dường đến Đức Phật, ngôi tịnh xá này có tên là Rāja-gahārāma.

Vua Pasenadi băng hà trước ngày Đức Phật viên tịch, thọ 80 tuổi. Nhà vua đã chết trong cảnh cô đơn, tại một ngôi nhà trọ ở ngoại thành.

Người cư sĩ hộ pháp quan trọng

Vua Asoka (A-Dục vương) - Một vị đại đế của Ấn Độ sau thời Đức Phật, một vị cư sĩ đại hộ pháp mà có lẽ chưa có vị vua nào sánh bằng, từ trước tới nay. Tên tuổi của vị vua này đã gắn liền với nền nghệ thuật, văn hóa Phật giáo.

Hoàng đế Asoka xuất hiện vào thế kỷ thứ ba trước Tây lịch, khoảng 200 năm sau khi Đức Phật níp bàn.

Ngài là con của vua Bimbisāra xứ Campala. Ngài có một người em ruột nữa là hoàng đệ Vitasoka. Về sau hoàng đệ Vitasoka xuất gia vào Phật giáo và đắc A la hán.

Thuở thiếu thời, hoàng đế Asoka không được vua cha yêu chuộng bởi ngài có thân hình xấu xí, tay chân thô kệch nhám nhúa, mặc dù tài năng vượt trội các vị hoàng tử khác - anh em một cha khác mẹ với ngài.

Thời ấy trong nước thường có loạn lạc do các xứ lân cận xâm lấn. Vua cha, vì không ưa hoàng tử Asoka nên luôn ban lệnh cho hoàng tử đi chinh phạt với một lực lượng quân đội yếu kém, binh mã và quân nhu tồi tệ. Thế nhưng do tài thao lược, hoàng tử Asoka lúc nào cũng đem chiến thắng trở về.

Vua cha của hoàng tử Asoka còn có nhiều người con khác, trong số đó có một hoàng tử mà vua cha rất yêu chuộng và đã chọn làm Đông cung Thái tử để nối ngôi, hoàng tử ấy tên là Susima. Nhưng hoàng tử Susima tính tình kiêu căng và hung dữ nên không được lòng của văn võ triều thần. Họ cùng nhau chờ dịp sẽ lập hoàng tử Asoka lên ngôi.

Thế rồi cơ hội cũng đến, ngày kia xứ Takkasilā nổi loạn, vua Bindusāra sai đông cung Susima mang đại quân dẹp loạn, nhưng thất bại. Hay tin chẳng lành, vua cha thọ bệnh và truyền lịnh hoàng tử Asoka đem binh tiếp ứng cho đông cung Susima.

Các vị đại thần đã xúi giục hoàng tử Asoka cáo bệnh không xuất chinh. Các đại thần thấy vua Bin-dusāra bệnh càng lúc càng trầm trọng, bèn vào triều tâu vua xin nhường ngôi lại cho hoàng tử Asoka, và họ đã tự an bày tôn hoàng tử Asoka lên ngôi, dù vua cha không chấp nhận. Vua Bindusāra quá tức giận thổ huyết mà băng hà.

Hay tin ấy, đông cung Susima tức tốc kéo binh về thành Pātaliputta để dành lại ngôi vua. Vua Asoka lập kế đã tiêu diệt được đông cung Susina.

Sau khi diệt được cái gai Susima, vua Asoka bèn bắt giết những quan thần mà trước đây đã khinh thường mình vì thân hình xấu xí.

Nhà vua lại cho lập ra cảnh Địa Ngục Bồng Lai để hành hình tội nhân, bên ngoài chốn ấy thật hữu tình ngoạn mục chẳng khác Bồng lai tiên cảnh, nhưng bên trong thì cảnh tượng rùng rợn như chốn địa ngục, có rất nhiều cách hành hình thật dã man.

Mặt khác, vua Asoka lại là vị vua hiếu sát. Nhà vua đã cất binh chinh phạt các nước chư hầu, đã gây nên cảnh tang thương chết chóc kinh hoàng. Trong cuộc chinh phạt ấy, thê thảm nhất là xứ Kaliṅga, mười muôn quân sĩ bị tử trận, mười lăm muôn quân khác bị bắt làm tù binh đem lưu đày, và vô số dân chúng đã bị sát hại, thây chất thành núi, máu chảy thành sông.

Sự hiếu sát và tính hung bạo của nhà vua làm cho dân chúng ta thán sợ hãi, họ đặt tên nhà vua là Caṇḍāsoka (ác vương Asoka).

Thế rồi một ngày kia, có vị tỳ kheo trẻ tuổi tên là Samudda vào thành Pātaliputta để khất thực, vô tình đi ngang qua chốn địa ngục bồng lai, vì mỏi mệt và thấy cảnh mát mẻ hữu tình nên vị ấy dừng chân ngồi nghỉ mát. Bọn cai ngục bắt giữ tỳ kheo Samudda và giam vào đại lao.

Tỳ kheo Samudda đã tranh thủ thời gian ấy, tinh tấn thiền định, lấy cảnh khổ luân hồi làm đề tài quán niệm, nỗ lực ngày đêm bất thối chuyển, vài ngày sau vị ấy chứng đắc A la hán quả với thần thông.

Vào ngày thứ tám, bọn cai ngục dẫn Ngài ra hành hình, bỏ vào chảo dầu và đốt lửa. Ngài Samud-da ngồi nhập định thản nhiên trong chảo dầu không hề hấn gì. Đức vua Asoka được báo tin lạ lùng ấy, vội vã ngự đến ngục thất để xem sự tình. Lúc ấy, Ngài Samudda bay lên ngồi kiết già trên không trung. Đức vua sanh tâm kinh sợ liền chắp tay đảnh lễ đại đức Samudda và yêu cầu đại đức Samudda giải thích điều kỳ diệu này.

Đại Đức Samudda bèn thuyết pháp cho nhà vua nghe, và khuyên nhà vua hãy bỏ dữ về lành, mở lòng từ bi bác ái, thương xót thần dân, đem lại an vui hạnh phúc cho muôn loài; đồng thời Ngài cũng nhắc cho nhà vua biết lời tiên tri của Đức Phật cách đây 200 năm, về nhà vua sẽ là bậc thánh vương hộ pháp có nhiều công đức trong việc phụng thờ xá lợi và truyền bá chánh pháp trong thế gian.

Nghe được lời giảng dạy cao quý, đức vua Asoka xúc động mãnh liệt và khởi lên niềm tịnh tín nơi Tam Bảo, bèn quì xuống tác bạch rằng:

"Bạch Đại Đức, từ trước đến nay trẫm đã gây nhiều ác nghiệp. Nay trẫm xin thành tâm sám hối các tội để phục thiện. Trẫm xin qui y Phật - Pháp - Tăng để tạo những việc lành kể từ ngày nay đến trọn đời".

Đại Đức Samudda phán rằng: "Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay! rồi Ngài biến đi mất.

Vua Asoka liền hạ lịnh phá hủy chốn địa ngục bồng lai ấy, và bắt đầu từ đấy, nhà vua tận tâm hộ pháp và dạy bảo dân chúng sống đạo đức theo tinh thần Phật giáo. Thần dân trong nước thấy vua thay đổi tâm tính và trở nên độ lượng khoan hồng, bèn tặng cho vua mỹ danh là Dhammāsoka (Pháp Vương Asoka hay Minh Vương Asoka).

Nhờ dựa trên tinh thần Phật giáo, đem chánh pháp áp dụng vào chính sách cai trị của vua Asoka nên đất nước Ấn Độ bấy giờ được thái bình thạnh trị, hùng cường vào bậc nhất.

Đức vua Asoka vì đã thống nhất toàn lãnh thổ Ấn Độ, thành vị đại đế, quyền hành rộng lớn bao gồm các nước chư hầu. Nên sau khi qui y theo Phật giáo rồi, đức vua tự thân đến thành Rājagaha thỉnh trọn phần Xá Lợi Phật được an vị trong thánh tháp mà vua Ajātasattu kiến tạo, để mang về Pātaliputta; đức vua cũng ra lịnh cho sáu vị vua xứ chư hầu mang nạp tất cả Xá Lợi Đức Phật trong xứ của họ đã được chia sớt tại Kusinārā sau lễ trà tỳ kim thân Đức Phật. Sau đó đức vua Asoka đã khiến thợ làm 84.000 hộp nhỏ bằng vàng chạm trổ khéo léo và 84.000 cái bình lớn hơn cũng bằng vàng, rồi phân chia Xá Lợi làm 84.000 phần đều nhau và an trí vào 84.000 cái hộp nhỏ, đặt vào 84.000 cái bình lớn. Xong việc, đức vua cho phân phát khắp nơi xứ Ấn Độ. Chỗ nào cũng xây ngôi tháp để tôn trí Xá Lợi.

Cách thức qui định là chỗ có dân cư từ 10 triệu, xây tháp Xá Lợi, bốn chỗ động tâm, xây tháp Xá Lợi, mỗi nơi nào có sự tích liên quan đến Đức Phật khi Ngài còn tại thế, xây tháp Xá Lợi.

Đức vua Asoka khuyến khích hoàng đệ Vitasoka xuất gia theo Phật pháp, đồng thời cũng cho hoàng tử Mahinda và công chúa Saṅghamittā gia nhập giáo hội tỳ kheo, tỳ kheo ni, cả ba vị này đều chứng quả A la hán.

Đức vua Asoka đã xây dựng vô số kiến trúc đền thờ có chạm trổ những sự tích Đức Phật và khắc chỉ dụ của vua trên những bia đá khuyên bảo dân chúng sống theo Phật pháp, lại dựng cột trụ nơi bốn thánh địa động tâm để lưu dấu tích: Đản Sanh, Thành Đạo, Chuyển Pháp Luân, Níp Bàn của Đức Phật.

Đức vua Asoka sau khi cho hai người con xuất gia, đã trở thành quyến thuộc thừa kế Phật giáo nên càng tịnh tín Tam Bảo. Mỗi ngày đức vua xuất ra 500.000 đồng Kahāpana cúng dường tứ sự đến Tăng chúng đầy đủ dồi dào. Cũng vì thế mà các nhóm tu sĩ ngoại đạo đã xâm nhập vào Tăng đoàn Phật giáo sống lẫn lộn với các vị tỳ kheo chân chánh để thọ hưởng lợi lộc vì ở ngoài họ bị thiếu thốn. Họ gia nhập hàng Tăng chúng nhưng vẫn có sở hành phi pháp tà kiến. Do đó, nội bộ chư Tăng bị xáo trộn không thể hành Tăng sự với nhau được, tình trạng kéo dài suốt bảy năm. Sau đó, chư tỳ kheo trình sự kiện này cho đức vua biết.

Đức vua Asoka có đức tin Phật pháp, thấy mình phải có trách nhiệm chấn hưng Phật giáo, nên đức vua đã học hỏi chánh pháp từ vị Thánh Tăng Mog-galliputtatissa. Thế rồi đức vua thỉnh mời tất cả chư tỳ kheo trong thành họp hội tại chùa Asakārāma tổ chức một cuộc vấn đạo. Đức vua làm giám khảo sát hạch pháp luật từng vị tỳ kheo do chư Trưởng lão làm hội đồng chứng minh. Cuối cùng qua cuộc thanh lọc, đức vua đã loại ra được 60.000 vị tỳ kheo giả mạo, cho hoàn tục thành người cư sĩ.

Khi Tăng chúng đã được thanh lọc, Trưởng lão Moggalliputtatissa họp Tăng 6 triệu tỳ kheo để hành Tăng sự Uposatha. Ngài đã chọn ra 1000 vị tỳ kheo A la hán tuệ phân tích, thông thuộc tam tạng và chú giải để kết tập kinh điển. Đức vua Asoka bảo trợ cho kỳ kết tập này. Đây là kỳ kết tập tam tạng lần thứ ba, vào năm Phật lịch 235.

Đức vua Asoka không những đã hộ độ chư Tăng phát triển Phật giáo trong nước, mà còn hỗ trợ Tăng truyền bá Phật giáo sang các nước lân cận. Vào năm Phật lịch 236, sau khi kết tập kinh điển, Ngài Moggalliputtatissa biết được Phật giáo sẽ được hưng thịnh ở ngoại quốc chớ không tại Ấn Độ, nên Ngài đã cử chư trưởng lão đi truyền bá Phật giáo sang các xứ lân bang, gồm có chín đoàn. Đức vua Asoka rất quan tâm và giúp đỡ chín đoàn sứ giả được thuận lợi đi đến các xứ để truyền đạo.

Đức vua Asoka là bậc cư sĩ đại hộ pháp với những công trình như vậy, và cho đến cuối cuộc đời, nhà vua vẫn còn nghĩ đến việc cúng dường Tam bảo bằng cách để lại di ngôn cho các quan thừa hành dâng hết cõi đất Diêm Phù (Ấn Độ) đến Tam bảo. Các quan phải xuất quốc khố mua lại giang sơn cho vị tân vương.

Xét về lòng tịnh tín bất động đối với Tam Bảo thì vua Asola không bằng trưởng giả Anāthapiṇḍika và đại tín nữ Visākhā, vì hai vị này là bậc thánh Tu đàhuờn. Nhưng nói về công trình chấn hưng và truyền bá Phật giáo thì đức vua Asoka vẫn chiếm ưu thế hơn.


Trích Cư Sĩ Giới Pháp. TK Giác Giới

Cư Sĩ Giới Pháp

1-8-2011


NGƯỜI CƯ SĨ PHẬT TỬ


I.1. TỨ CHÚNG PHẬT GIÁO

Trong Phật giáo có bốn hội chúng (parisā) là hội chúng tỳ kheo (bhikkhu), hội chúng tỳ kheo ni (bhikkhunī), hội chúng nam cư sĩ (upāsaka), hội chúng nữ cư sĩ (upāsikā).

Hội chúng tỳ kheo là hội chúng của những nam tu sĩ Phật giáo gồm cả Sa di (sāmanera), đó là những vị đã xuất gia từ bỏ gia đình sống không gia đình, chấp nhận đời sống phạm hạnh độc thân. Sa di là vị tu sĩ tập sự để trở thành vị tỳ kheo, vị sa di tuổi từ hai mươi trở lên mới được phép thọ cụ túc giới. Sa di bên Tăng chúng không buộc thời gian.

Hội chúng tỳ kheo ni là hội chúng của những nữ tu sĩ Phật giáo, gồm cả sa di ni và học nữ (sāmaṇerī, sikkhāmānā). Đó là những người nữ đã xuất gia, từ bỏ gia đình sống không gia đình, chấp nhận đời sống phạm hạnh độc thân. Người nữ mới gia nhập ni chúng phải qua hai năm thọ giới học nữ mới làm sa di ni, thọ giới sa di ni qua hai năm và tuổi đủ hai mươi mới được thọ đại giới tỳ kheo ni.

Hội chúng nam cư sĩ là chỉ cho những thiện nam tử ở gia đình, chưa xuất gia, vẫn còn hưởng dục lạc thế tục. Những người nam này có niềm tin Tam bảo, sống hiền thiện và tạo các công đức.

Hội chúng nữ cư sĩ là những người nữ ở gia đình, còn hưởng dục lạc thế tục, chưa xuất gia thành ni chúng. Họ có niềm tin Tam bảo, sống hiền thiện và tạo các công đức.

Bốn hội chúng Phật giáo, trong đó, hội chúng tỳ kheo và hội chúng tỳ kheo ni, là hội chúng đệ tử xuất gia của Đức Phật. Hội chúng nam cư sĩ và nữ cư sĩ là hội chúng đệ tử tại gia của Đức Phật.

I.2. Ý NGHĨA U-BÀ-TẮC VÀ U-BÀ-DI

Người sống đời sống gia đình không phải là vị tu sĩ của giáo hội, gọi là người tại gia (gahaṭṭha) hay cư sĩ (gihi).

Những cư sĩ theo đạo Phật được gọi là U-bà-tắc và U-bà-di. Đó là tiếng đọc âm của danh từ Phạn ngữ Upāsaka và Upāsikā.

Upāsaka (âm là U-bà-tắc), dịch là "Người phụng sự, người cận sự", danh từ này chỉ cho nam cư sĩ nên được gọi là "Cận sự nam". Người ta cũng thường gọi người nam cư sĩ trong Phật giáo là "Thiện nam", nhưng danh từ này không dịch đúng với tiếng Upāsaka.

Upāsikā (âm là U-bà-di), cũng có nghĩa là người phụng sự, người cận sự. Tiếng Upāsikā và Upāsaka đều có một gốc từ "Upa + ās". Danh từ Upāsikā dùng để chỉ cho nữ cư sĩ nên được gọi là cận sự nữ. Người ta thường gọi nữ cư sĩ trong Phật giáo là "Tín nữ", đó cũng không phải dịch đúng với tiếng Upāsikā.

Hai danh từ cận sự nam và cận sự nữ đúng nghĩa với tiếng upāsaka và upāsikā (U-bà-tắc, U-bà-di) hơn là gọi Thiện nam và Tín nữ.

Người ta quan niệm người nam làm điều thiện nhiều hơn người nữ, nên mới gọi là Thiện nam; và người nữ thì có đức tin mạnh hơn người nam, nên gọi là Tín nữ. Thật ra quan niệm này không đúng, vì nếu người không có đức tin thì làm sao tạo thiện sự được? Người nam cũng có đức tin mạnh. Cũng như đối với người nữ không những chỉ có đức tin, mà người nữ vẫn tích cực làm điều thiện vậy. Và đó gọi là cận sự nam và cận sự nữ đúng hơn.

Ý nghĩa cận sự nam và cận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩ có niềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.