Thứ Ba, 17 tháng 9, 2013
SAU KHI NHƯ LAI VIÊN TỊCH, PHÁP VÀ LUẬT LÀ THẦY CỦA CÁC
CON
‘‘Aparampi,
mahārāja, uttariṃ kāraṇaṃ suṇohi paravādānaṃ niggahāya. Yathā, mahārāja, puriso
bheriṃ ākoṭetvā saddaṃ nibbatteyya, yo so bherisaddo purisena nibbattito, so
saddo antaradhāyeyya, api nu kho so, mahārāja, saddo sādiyati puna
nibbattāpana’’nti? ‘‘Na hi, bhante, antarahito so saddo, natthi tassa puna
uppādāya ābhogo vā
manasikāro vā, sakiṃ nibbatte bherisadde antarahite so bherisaddo samucchinno
hoti. Bherī pana, bhante, paccayo hoti saddassa nibbattiyā, atha puriso paccaye sati attajena
vāyāmena bheriṃ akoṭetvā saddaṃ nibbattetī’’ti. ‘‘Evameva kho, mahārāja,
bhagavā sīlasamādhipaññāvimuttivimuttiñāṇadassanaparibhāvitaṃ dhāturatanañca
dhammañca vinayañca anusiṭṭhañca [anusatthiñca (sī. pī.)] satthāraṃ ṭhapayitvā sayaṃ anupādisesāya nibbānadhātuyā
parinibbuto, na ca parinibbute bhagavati sampattilābho upacchinno hoti,
bhavadukkhapaṭipīḷitā sattā dhāturatanañca dhammañca vinayañca anusiṭṭhañca paccayaṃ
karitvā sampattikāmā sampattiyo paṭilabhanti, imināpi, mahārāja, kāraṇena
tathāgatassa parinibbutassa asādiyantasseva kato adhikāro avañjho bhavati
saphaloti.
‘‘Diṭṭhañcetaṃ,
mahārāja, bhagavatā anāgatamaddhānaṃ. Kathitañca bhaṇitañca ācikkhitañca ‘siyā
kho panānanda, tumhākaṃ evamassa atītasatthukaṃ pāvacanaṃ natthi
no satthāti, na kho panetaṃ, ānanda, evaṃ daṭṭhabbaṃ, yo vo, ānanda, mayā
dhammo ca vinayo ca desito paññatto, so vo mamaccayena satthā’ti.
Parinibbutassa tathāgatassa asādiyantassa kato adhikāro vañjho bhavati
aphaloti, taṃ tesaṃ titthiyānaṃ vacanaṃ micchā abhūtaṃ vitathaṃ alikaṃ
viruddhaṃ viparītaṃ dukkhadāyakaṃ dukkhavipākaṃ apāyagamanīyanti.
4. Tâu đại
vương, hãy lắng nghe thêm lý do khác nữa để phản bác lại các học thuyết khác.
Tâu đại vương, giống như người đàn ông sau khi vỗ vào cái trống thì tạo ra âm
thanh; âm thanh nào của cái trống đã được tạo ra bởi người đàn ông thì âm thanh
ấy sẽ biến mất. Tâu đại vương, phải chăng âm thanh ấy cũng ưng thuận việc tạo
ra lần nữa?”
“Thưa ngài,
không đúng. Âm thanh ấy đã biến mất, nó không có tư tưởng hoặc tác ý cho việc
sanh lên lần nữa. Khi âm thanh của cái trống đã được tạo ra một lần rồi biến mất,
âm thanh của cái trống ấy được chấm dứt. Thưa ngài, tuy nhiên cái trống là điều
kiện cho việc tạo ra âm thanh. Và người đàn ông khi có điều kiện vỗ vào cái trống
bằng sự nỗ lực của chính mình thì tạo ra âm thanh.”
“Tâu đại vương,
tương tợ y như thế đức Thế Tôn, sau khi xác lập báu vật xá-lợi, cùng với Pháp,
Luật, và lời giáo huấn đã được phát triển toàn vẹn nhờ vào Giới-Định-Tuệ-Giải
Thoát-Trí Tuệ và Nhận Thức về sự Giải Thoát chính là bậc Đạo Sư, rồi đã tự mình
Viên Tịch Niết Bàn ở cảnh giới Niết Bàn không còn dư sót. Và không phải khi đức
Thế Tôn đã Viên Tịch Niết Bàn thì việc đạt được các sự thành tựu là bị gián đoạn.
Các chúng sanh bị hành hạ bởi khổ đau ở sự hiện hữu, sau khi sử dụng báu vật
xá-lợi, Pháp, Luật, và lời giáo huấn làm điều kiện, rồi có ước muốn về sự thành
tựu thì đạt được các sự thành tựu. Tâu đại vương, cũng vì lý do này dẫu cho đức
Như Lai đã Viên Tịch Niết Bàn, không còn ưng thuận, hành động hướng thượng được
làm đến Ngài là không vô ích, có quả báu.
Tâu đại vương, đức
Thế Tôn đã nhìn thấy, đã thuyết giảng, đã nói lên, đã phát biểu về điều ấy cho
thời vị lai xa xôi rằng: ‘Này Ānanda, nếu các ngươi khởi ý như vầy: Có lời dạy
của đấng Đạo Sư trong quá khứ, còn (hiện nay) chúng ta không có bậc Đạo Sư. Này
Ānanda, điều này không nên được nhận thức như thế. Này Ānanda, Pháp và Luật nào
đã được thuyết giảng, đã được quy định bởi Ta, Pháp và Luật ấy, sau khi Ta tịch
diệt, là bậc Đạo Sư của các ngươi.’ Về lời nói ấy của các giáo chủ tà giáo ấy rằng:
‘Đức Như Lai đã Viên Tịch Niết Bàn không còn ưng thuận, hành động hướng thượng
được làm đến Ngài là vô ích, không có quả báu’ là sai trái, không là sự thật,
lìa sự chân thật, không đúng, là mâu thuẫn, là sai lệch, tạo sự khổ đau, có kết
quả khổ đau, dẫn đến địa ngục.”