"HỌC LỜI PHẬT DẠY"
1. Tựa Kinh
Tập Itivuttaka - "Kinh thuyết như vậy",
thuộc Bộ Khuddaka Nikàya (Tiểu Bộ Kinh) gồm có 112 kinh với các bài kệ, chia
thành 4 chương, chương một pháp, chương hai pháp, chương ba pháp, chương bốn
pháp. Như vậy là một sự phân loại các đề tài theo pháp số, như kiểu tập Tăng
Chi Bộ Kinh. Sở dĩ được gọi là "Itivuttaka: Thuyết như vậy", là vì
phần lớn các kinh này đều bắt đầu với câu: "Ðây là điều đã được Thế Tôn
nói đến, đã được bậc A la hán nói đến và tôi đã được nghe", và được kết
luận với câu: "Ý nghĩa này được Thế Tôn nói đến và tôi đã được nghe".
Có một số kinh ở chặng giữa không có các câu mở đầu và câu kết như thế này,
nhưng đến các kinh cuối lại được ghi trở lại.
2. Nguồn gốc
Theo truyền thống, như
đã được ghi trong tập sớ được xem là của tôn giả Dhammapàla, Khujjuttarà một nữ
cư sĩ, thường đi nghe Thế Tôn thuyết pháp cho chúng tỷ kheo, nàng ngồi sau lưng
một bức màn trở thành một bậc đa văn, nghe nhiều, giỏi về chánh pháp và giỏi về
trí tuệ. Nàng được nội cung của Vua Udena yêu cầu nói lại những điều đã được
nghe và sau khi nghe, học thuộc lòng những điều đã được nghe. Nàng được Thế Tôn
khen và gọi là đa văn đệ nhất. Theo truyền thống, chính là tập Itivuttaka này,
nàng đã được nghe và truyền tụng lại. Tập sớ có ghi rằng chúng tỷ kheo cũng học
thuộc lòng tập kinh này, và chính tôn giả Ananda đã đọc lại bộ kinh này, trong
kỳ kiết tập thứ nhất ở Ràjagahà (Vương xá). Các kinh ở chương bốn pháp dài hơn
và không có kinh Hán tạng tương đương và được xem là ghi chép về sau. Một số
kinh trong tập này được tìm thấy trong tập Tăng Chi Bộ Kinh và
Puggala-pannatti. (Theo sự chú giải của bản dịch Anh văn).
3.
Bố cục
Về phương diện nội dung
tập Itivuttaka không đề cập tới đời sống đức Phật, đời sống các đại đệ tử của
đức Phật như chúng ta được thấy trong tập Udàna. Tập này chú trọng nhiều hơn
đến phần giáo lý căn bản, định nghĩa những pháp số, phân loại theo bốn chương
một pháp, hai pháp, ba pháp, bốn pháp. Nói một cách khác, một số đề tài đã được
lựa chọn, định nghĩa, giải thích một cách ngắn gọn để các đệ tử có thể tìm
hiểu, học thuộc lòng và nắm giữ được phần căn bản trong giáo lý của đức Phật.
Như vậy, giải thích được truyền thống: xem rằng chính Khujjuttarà, nghe được
những lời Thế Tôn dạy, nhớ lấy rồi thuyết lại cho các đệ tử khác, nhờ vậy tập
nầy được lưu truyền.
Kinh "Phật thuyết
như vậy", xuất xứ từ kinh Tạng Pàli là kinh thuộc kinh điển Thượng Tọa Bộ,
trung thành gìn giữ lời dạy của đức Phật.
4.
Đức Phật
Nói về đức Phật hiện tại
và rộng hơn nữa, nói về Như Lai (Tathagata), chúng ta sẽ thấy đức Phật chưa
được thần thánh hóa, chưa dùng thần thông để hóa độ chúng sanh.
Như Lai được diễn tả như
một bực đã giác ngộ thế giới, "Thế giới tập khởi, thế giới đoạn diệt, con
đường đưa đến thế giới đoạn diệt."
"Này các tỷ kheo,
thế giới được Như Lai Chánh đẳng giác, Như Lai không hệ lụy đối với đời. Này
các tỷ kheo, thế giới tập khởi được Như Lai Chánh Ðẳng Giác. Thế giới tập khởi
được Như Lai đoạn tận. Này các tỷ kheo, Thế giới đoạn diệt được Như Lai giác
ngộ. Này các tỷ kheo, con đường đưa đến thế giới đoạn diệt được Như Lai Chánh
đẳng giác; con đường đưa đến thế giới đoạn diệt được Như Lai đã tu tập."
"Cái gì này các tỷ
kheo, trong toàn thế giới với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới cùng với
quần chúng Sa môn, Bà la môn chư Thiên và loài người được thấy, được nghe, được
thọ tưởng, được thức tri, được đạt đến, được tầm cầu, được ý tư sát, tất cả đều
được Như Lai Chánh đẳng giác. Do vậy được gọi là Như Lai. Này các tỷ kheo, từ
đêm Như Lai chứng ngộ vô thượng Chánh đẳng giác đến đêm Ngài nhập Niết bàn,
không có dư y, trong thời gian ấy điều gì Ngài nói, tuyên bố nêu rõ lên, tất cả
là như vậy, không có khác được, do vậy được gọi là Như Lai.
"Này các tỷ kheo,
Như Lai nói gì làm vậy, làm gì nói vậy; vì rằng nói gì làm vậy, làm gì nói vậy,
nên được gọi Như Lai.
"Này các tỷ kheo,
trong toàn thể thế giới, Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, cùng với quần
chúng Sa môn, Bà la môn, chư Thiên và loài người, Như Lai là bậc chiến thắng,
không bị chiến bại, toàn tri, toàn kiến, được tự tại, do vậy được gọi là Như
Lai (Kinh số 112)."
5.
Theo Phật
Hình ảnh Như Lai là vậy,
hình ảnh Thế Tôn không có khác hơn, ở đây Thế Tôn tượng trưng cho Pháp và những
ai thấy pháp, sống theo Pháp, người ấy mới gần Thế Tôn như kinh số 92 nêu rõ:
"Này các tỷ kheo,
nếu một tỷ kheo nắm lấy viền áo Tăng già lê đi theo sau lưng Ta, chân bước theo
chân, nhưng vị ấy có tham ái trong các dục, với lòng sắc xảo, với tâm sân hận,
ý tư duy nhiễm ác, thất niệm, không tỉnh giác, không định tỉnh, tâm tán loạn,
với các căn hoang dại, vị ấy xa hẳn Ta và Ta xa vị ấy.
"Vì cớ sao? Này các
tỷ kheo, tỷ kheo ấy không thấy pháp. Do không thấy pháp nên không thấy Ta. Này
các tỷ kheo, nếu tỷ kheo sống xa đến 100 do tuần và vị ấy không có tham ái
trong các dục, với lòng tham không sắc xảo, tâm không sân hận, ý tư duy không
nhiễm ác, chánh niệm tỉnh giác, định tỉnh nhất tâm, các căn được chế ngự, vị ấy
gần hẳn Ta và Ta gần vị ấy.
"Vì cớ sao? Này các
tỷ kheo, tỷ kheo ấy thấy pháp. Do thấy pháp nên thấy Ta".
Trong kinh số 100, chính
Ðức Phật tự tả mình như sau:
"Này các tỷ kheo,
Ta là Bà la môn, người được đến yêu cầu (yàcayogo), tay luôn luôn thanh tịnh
(payatapàni) mang thân cuối cùng, vô thượng y sĩ chữa trị (bhisakko) y sĩ giải
phẫu (sallakatta). Các ngươi thật là con của Ta (arasà) từ miệng sanh, từ pháp
sanh, từ pháp tạo thành, thừa tự pháp, không thừa tự tài vật."
Ðức Phật tự xưng là y sĩ
chữa trị (bhisakkà), tự xưng là y sĩ giải phẫu (sallakatta). Ngài xem các đệ tử
như con của Ngài, từ miệng sanh, từ pháp sanh, là những con cháu thừa tự pháp.
Ðâu đâu cũng thấy vai trò trọng yếu của chánh pháp, vì đức Phật là tượng trưng
cho Pháp, tự miệng mình thuyết pháp độ chúng sanh. Rõ hơn nữa là xác nhận hai
loại thuyết pháp của đức Phật, như kinh 35 đã nêu rõ:
"Có hai loại thuyết
pháp của Như Lai, bậc A la hán, chánh đẳng giác, cái này tiếp nối cái kia. Thế
nào là hai? Hãy thấy Ác là ác. Ðây là thuyết pháp thứ nhất. Sau khi thấy ác là
ác, ở đây hãy nhàm chán, hãy từ bỏ, hãy thoát ly! Ðây là thuyết pháp thứ
hai!"
6.
Tôn chỉ
Ðức Phật đã là đức Phật
nguyên thủy, thời mục đích của sự tu hành, sự cứu cánh của Phạm hạnh và mục
tiêu giải thoát giác ngộ là những mục tiêu trung thành với giáo pháp chánh
thống nguyên thủy.
Mục đích của đạo Phật là
giải quyết vấn đề sanh lão bệnh tử, tức là chấm dứt sự đau khổ cho con người.
Và đoạn kinh sau này xác chứng rằng sự đau khổ có thể được chấm dứt và trạng
thái đau khổ được chấm dứt là Niết bàn. Dưới đây là định nghĩa của Niết bàn ấy
trong kinh số 44:
"Này các tỷ kheo,
có hai Niết bàn giới này. Thế nào là hai? Niết bàn giới có dư y và Niết bàn
giới không dư y.
"Này các tỷ kheo,
thế nào là Niết bàn giới có dư y? Ở đây, này các tỷ kheo, tỷ kheo là bậc A la
hán, các lậu hoặc đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc nên làm đã làm, đã đặt gánh
nặng xuống, đã đạt được mục đích: hữu kiết sử đã diệt, đã giải thoát nhờ chánh
trí. Trong vị ấy, năm căn còn tồn tại. Ngang qua các căn ấy, vị ấy hưởng thọ
khả ý, không khả ý, vì rằng tự ngã không có thương hại nên cảm giác lạc khổ.
Với vị ấy, tham diệt, sân diệt, si diệt. Này các tỷ kheo, đây gọi là Niết bàn
có dư y.
"Này các tỷ kheo,
thế nào là Niết bàn không có dư y? Ở đây, này các tỷ kheo, tỷ kheo là bậc A la
hán, các lậu hoặc đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc nên làm đã làm, đã đặt gánh
nặng xuống, đã đạt được mục đích, hữu kiết sử đã diệt, đã giải thoát nhờ chánh
trí. Ở đây, đối vị ấy, mọi cảm thọ đều không có hoan hỷ ưa thích, sẽ được lắng
dịu".
7.
Cứu cánh
Một kinh nữa, kinh số 43
xác nhận sự hiện diện của trạng thái giải thoát này, ngay trong đời hiện tại,
có mặt trên quả đất này:
"Này các tỷ kheo,
có cái không sanh, không hiện hữu, không tác thành, không làm ra. Này các tỷ
kheo, nếu không có cái không sanh, không hiện hữu, không tác thành, không làm
ra, thời ở đây không có thể trình bày sự xuất ly khỏi sanh, khỏi hiện hữu, khỏi
tác thành, khỏi làm ra. Do vì này các tỷ kheo, có cái không sanh, không hiện
hữu, không tác thành, không làm ra, nên có thể trình bày được sự xuất ly khỏi
sanh, khỏi hiện hữu, khỏi tác thành, khỏi làm ra".
Ở đây, có hai nhận xét
quan trọng. Ðức Phật khi nhập Niết bàn có dư y ở Kusinàra, không phải là mất
hẳn, tiêu diệt hoàn toàn, vì như vậy là theo thuyết đoạn diệt đạo Phật không
chấp nhận. Ở đây, tham sân si không còn, lạc thọ khổ thọ không khởi lên, nhưng
mọi cảm thọ đều được lắng dịu, mát lạnh, thanh lương. Nhận xét quan trọng thứ
hai là sự đau khổ có thể đoạn diệt ngay trong đời sống hiện tại với những vị đã
chứng quả A la hán. Và dầu chưa chứng được quả A la hán, nếu hành trì theo lời
Phật dạy, thời có thể đoạn trừ dần dần các sự khổ đau.
8.
Tu tập
Vấn đề quan trọng thứ
hai, sau mục đích giải thoát và giác ngộ là những pháp môn giúp người tu hành
đạt đến mục đích đoạn tận khổ đau. Chúng ta sẽ thấy pháp môn tuy nhiều, nhưng
không bao giờ ra ngoài pháp môn Giới-Ðịnh-Tuệ, pháp môn duy nhất để đưa người
hành trì đoạn tận khổ đau.
"Này các tỷ kheo,
một tỷ kheo có giới tốt lành (kalyàmasìlo), có pháp tốt lành, có tuệ tốt lành,
được gọi trong pháp và luật này là vị toàn hảo.
"Này các tỷ kheo,
một tỷ kheo có giới tốt lành, có pháp tốt lành, có tuệ tốt lành được gọi trong
pháp và luật này là vị toàn hảo (kevalì). Này các tỷ kheo, thế nào là giới tốt
lành? Ở đây, này các tỷ kheo, tỷ kheo giữ giới, sống chế ngự với sự chế ngự của
giới bổn Pàtimokkha đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi trong những lỗi nhỏ
nhặt, chấp nhận và học tập trong các học pháp. Như vậy này các tỷ kheo, là tỷ
kheo có giới tốt lành. Và thế nào là có pháp tốt lành? Ở đây, này các tỷ kheo,
tỷ kheo sống chuyên tâm chuyên chú tu tập bảy pháp giác chi. Như vậy này các tỷ
kheo, là tỷ kheo có pháp tốt lành. Và thế nào là tuệ tốt lành? Ở đây này các tỷ
kheo, tỷ kheo do diệt trừ các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự mình với thắng
tri chứng ngộ chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Như
vậy, này các tỷ kheo là tỷ kheo có tuệ tốt lành. Như vậy, một người có giới tốt
lành, có pháp tốt lành, có tuệ tốt lành được gọi trong pháp và luật này là vị
toàn hảo (kevalì) (Kinh số 97)."
Cũng theo chiều hướng
trên, ba hình ảnh được phát họa diễn tả ba hạng người, tùy theo mức độ đối trị
được với dục và hữu:
"Này các tỷ kheo,
những ai bị trói buộc bởi trói buộc của dục, những ai bị trói buộc bởi trói
buộc của hữu, là những bậc đến lại, đi đến lại có mặt ở đây. Những ai chế ngự
được sự trói buộc của dục, này các tỷ kheo, nhưng còn bị trói buộc bởi trói buộc
của hữu, những vị ấy là hạng bất lai, không trở lui lại có mặt ở đây. Những ai
chế ngự được sự trói buộc của dục, chế ngự được sự trói buộc của hữu, những vị
ấy là những bậc A la hán, đã đoạn tận các lậu hoặc (Kinh 97)."
Tiếp theo là một số
phương pháp tu học, một nếp sống đưa đến hai quả Chánh trí hay nếu có dư y thời
được quả Bất lai, những quả cao nhất trong con đường tu hành, nghĩa là đoạn tận
được khổ đau.
"Này các tỷ kheo,
hãy sống ưa muốn ẩn dật, thiền tịnh, thích thú ẩn dật thiền tịnh, thành tựu quán
tri, hành trì hạnh đi đến các ngôi nhà trống (Kinh số 45)."
"Này các tỷ kheo,
hãy an trú vào lợi ích của học tập, cho trí tuệ tối thượng, cho lỏi cây giải
thoát, cho niệm được tăng trưởng... (Kinh số 46)."
"Này các tỷ kheo,
tỷ kheo phải sống cảnh giác, chánh niệm tỉnh giác, thiền tịnh, hoan hỷ, tín
thanh và ở đây quán tri đúng thời trong các pháp thiện... (Kinh số 47)"
Những vị thực hành theo
pháp môn này thời có hy vọng đoạn trừ được khổ đau.
Ðức Phật còn dạy tỷ kheo
làm thế nào đã đối trị 3 cảm thọ -- lạc thọ, khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ:
"Này các tỷ kheo,
lạc thọ cần phải được xem như là khổ, khổ thọ cần phải được xem như là vô
thường. Vì rằng, này các tỷ kheo, tỷ kheo đã xem lạc thọ như là khổ, đã xem khổ
thọ như là mũi tên, đã xem bất khổ bất lạc thọ như là vô thường. Này các tỷ
kheo, tỷ kheo này gọi là bậc Thánh, đã chân chánh thấy, đã chặt đứt ái, đã giải
tỏa kiết sử, đã chân chánh thắng tri mạn, đã đoạn tận khổ đau." (Kinh số
53)
"Này các tỷ kheo,
cần phải quán sát một cách như thế nào, do quán sát như vậy, thức của vị ấy đối
với ngoại trần không có tán loạn, không có tản rộng, tâm không trú trước nội
tâm, không chấp thủ không bị khủng bố, sẽ không có sự sanh, tập khởi của khổ về
sanh già chết trong tương lai (Kinh số 94)."
"Này các tỷ kheo,
những Sa môn hay Bà la môn nào không như thật quán tri đây là khổ tập, không
như thật quán tri đây là khổ diệt, không như thật quán tri đây là con đường đưa
đến khổ diệt. Những Bà là môn ấy, này các tỷ kheo, không được Ta chấp nhận là
Sa môn trong các hạng Sa môn hay Bà la môn trong các hạng Bà la môn. Với các vị
tôn giả ấy ngay trong hiện tại cũng không tự mình với thắng trí chứng ngộ,
chứng đạt và an trú mục đích Sa môn hạnh hay mục đích Bà la môn hạnh. Những Sa
môn hay Bà la môn nào, này các tỷ kheo, như thật quán tri đây là khổ, như thật
quán tri đây là khổ tập, như thật quán tri đây là khổ diệt, như thật quán tri
đây là con đường đưa đến khổ diệt, thời, này các tỷ kheo, các Sa môn hay Bà la
môn ấy được Ta chấp nhận là Sa môn trong các hạng Sa môn hay Bà la môn trong
các hạng Bà la môn và các vị tôn giả ấy, ngay trong hiện tại tự mình với thắng
trí chứng ngộ chứng đạt và an trú mục đích Sa môn hạnh hay mục đích Bà la môn
hạnh (Kinh số 103)." (...)