Thứ Ba, 31 tháng 12, 2013
BÀI HỌC TU TẬP TỪ THIÊN NHIÊN
“Thưa ngài Nāgasena, hội
đủ bao nhiêu tính chất thì vị tỳ khưu chứng ngộ phẩm vị A-la-hán?”
“Tâu đại vương, ở đây với
vị tỳ khưu có ước muốn chứng ngộ phẩm vị A-la-hán thì:
Một tính chất của con vật
có tiếng kêu ghê rợn nên được hành trì.
Năm tính chất của con gà
trống nên được hành trì.
Một tính chất của con
sóc nên được hành trì.
Một tính chất của con
beo cái nên được hành trì.
Hai tính chất của con
beo đực nên được hành trì.
Năm tính chất của con
rùa nên được hành trì.
Một tính chất của cây
tre nên được hành trì.
Một tính chất của cây
cung nên được hành trì.
Hai tính chất của con quạ
nên được hành trì.
Hai tính chất của con khỉ
nên được hành trì.
Một tính chất của dây bầu
nên được hành trì.
Ba tính chất của cây sen
nên được hành trì.
Hai tính chất của hạt giống
nên được hành trì.
Một tính chất của cây
sālā xinh đẹp nên được hành trì.
Ba tính chất của chiếc
thuyền nên được hành trì.
Hai tính chất của cái
neo thuyền nên được hành trì.
Một tính chất của cột buồm
nên được hành trì.
Ba tính chất của người
thuyền trưởng nên được hành trì.
Một tính chất của người
làm công nên được hành trì.
Năm tính chất của biển cả
nên được hành trì.
Năm tính chất của đất
nên được hành trì.
Năm tính chất của nước
nên được hành trì.
Năm tính chất của lửa
nên được hành trì.
Năm tính chất của gió
nên được hành trì.
Năm tính chất của núi
nên được hành trì.
Năm tính chất của hư
không nên được hành trì.
Năm tính chất của mặt
trăng nên được hành trì.
Bảy tính chất của mặt trời
nên được hành trì.
Ba tính chất của vị
Sakka nên được hành trì.
Bốn tính chất của vị
Chuyển Luân nên được hành trì.
Một tính chất của loài mối
nên được hành trì.
Hai tính chất của loài
mèo nên được hành trì.
Một tính chất của loài
chuột nên được hành trì.
Một tính chất của loài
bò cạp nên được hành trì.
Một tính chất của loài
chồn nên được hành trì.
Hai tính chất của loài chó
rừng già nên được hành trì.
Ba tính chất của loài
nai nên được hành trì.
Bốn tính chất của loài
bò nên được hành trì.
Hai tính chất của loài
heo nên được hành trì.
Năm tính chất của loài
voi nên được hành trì.
Bảy tính chất của loài
sư tử nên được hành trì.
Ba tính chất của loài ngỗng
đỏ nên được hành trì.
Hai tính chất của loài sếu
cái nên được hành trì.
Một tính chất của loài bồ
câu nhà nên được hành trì.
Hai tính chất của loài
chim cú nên được hành trì.
Một tính chất của loài
chim gõ kiến nên được hành trì.
Hai tính chất của loài
dơi nên được hành trì.
Một tính chất của loài đỉa
nên được hành trì.
Ba tính chất của loài rắn
nên được hành trì.
Một tính chất của loài
trăn nên được hành trì.
Một tính chất của loài
nhện đường nên được hành trì.
Một tính chất của đứa bé
đeo bầu vú nên được hành trì.
Một tính chất của loài
rùa có đốm nên được hành trì.
Năm tính chất của khu rừng
nên được hành trì.
Ba tính chất của cây cối
nên được hành trì.
Năm tính chất của cơn
mưa nên được hành trì.
Ba tính chất của ngọc
ma-ni nên được hành trì.
Bốn tính chất của người
thợ săn nên được hành trì.
Hai tính chất của người
câu cá nên được hành trì.
Hai tính chất của người
thợ mộc nên được hành trì.
Một tính chất của chum
nước nên được hành trì.
Hai tính chất của sắt
đen nên được hành trì.
Ba tính chất của cái lọng
che nên được hành trì.
Ba tính chất của thửa ruộng
nên được hành trì.
Hai tính chất của thuốc
giải độc nên được hành trì.
Ba tính chất của vật thực
nên được hành trì.
Bốn tính chất của người
cung thủ nên được hành trì.
Bốn tính chất của vị vua
nên được hành trì.
Hai tính chất của người
gác cổng nên được hành trì.
Một tính chất của cối đá
xay được hành trì.
Hai tính chất của cây
đèn nên được hành trì.
Hai tính chất của loài
chim công nên được hành trì.
Hai tính chất của loài
ngựa nên được hành trì.
Hai tính chất của kẻ say
rượu nên được hành trì.
Hai tính chất của cái
ngưỡng cửa nên được hành trì.
Một tính chất của cái
cân nên được hành trì.
Hai tính chất của thanh
gươm nên được hành trì.
Hai tính chất của loài
cá nên được hành trì.
Một tính chất của kẻ vay
nợ nên được hành trì.
Hai tính chất của người
bị bệnh nên được hành trì.
Hai tính chất của người
bị chết nên được hành trì.
Hai tính chất của con
sông nên được hành trì.
Một tính chất của loài
bò mộng nên được hành trì.
Hai tính chất của con đường
nên được hành trì.
Một tính chất của người
thu thuế nên được hành trì.
Ba tính chất của kẻ trộm
cướp nên được hành trì.
Một tính chất của loài
chim diều hâu nên được hành trì.
Một tính chất của loài
chó nên được hành trì.
Ba tính chất của người
thầy thuốc nên được hành trì.
Hai tính chất của người
nữ mang thai nên được hành trì.
Một tính chất của loài
sơn dương nên được hành trì.
Hai tính chất của loài
chim giẻ nên được hành trì.
Ba tính chất của loài bồ
câu nên được hành trì.
Hai tính chất của người
một mắt nên được hành trì.
Ba tính chất của người
cày ruộng nên được hành trì.
Một tính chất của loài
chó rừng giống Jambuka nên được hành trì.
Hai tính chất của cái
sàng loại nhỏ nên được hành trì.
Một tính chất của cái muỗng
nên được hành trì.
Ba tính chất của người
thâu nợ nên được hành trì.
Một tính chất của người
nghiên cứu nên được hành trì.
Hai tính chất của người
đánh xe nên được hành trì.
Hai tính chất của người
cung cấp thức ăn nên được hành trì.
Một tính chất của người
thợ may nên được hành trì.
Một tính chất của người
lái thuyền nên được hành trì.
Hai tính chất của loài
ong nên được hành trì.”
Các Tiêu Đề được đầy đủ.
VÍ DỤ VỀ ĐẶC TÍNH CỦA LOÀI LỪA
“Thưa ngài Nāgasena, điều
mà ngài nói là: ‘Một tính chất của con vật có tiếng kêu ghê rợn (loài lừa) nên
được hành trì,’ một tính chất nên được hành trì ấy là điều nào?”
“Tâu đại vương, giống
như loài lừa nằm ở bất cứ nơi đâu: ở đỉnh đống rác, ở ngã tư đường, ở giao lộ, ở
cổng làng, ở đống trấu, và không nằm nhiều. Tâu đại vương, tương tợ y như thế vị
hành giả thiết tha tu tập có thể nằm sau khi đã trải xuống mảnh da ở bất cứ nơi
đâu: ở tấm trải bằng cỏ, ở tấm trải bằng lá, ở chiếc giường nhỏ bằng cây gỗ, ở
nền đất, không nên nằm nhiều. Tâu đại vương, điều này là một tính chất của loài
lừa nên được hành trì. Tâu đại vương, điều này cũng đã được đức Thế Tôn, vị Trời
vượt trội các vị Trời, nói đến:
‘Này các tỳ khưu, giờ
đây các đệ tử của Ta, với gối kê đầu là khúc gỗ mục, sống không xao lãng, có
nhiệt tâm trong việc nỗ lực.’
Tâu đại vương, điều này
cũng đã được trưởng lão Sāriputta, vị Tướng Quân Chánh Pháp, nói đến:[1]
‘Đối với vị đang ngồi với
thế kiết già, trời mưa còn chưa làm ướt đầu gối, vậy là quá đủ cho sự an trú
thoải mái của vị tỳ khưu có bản tánh cương quyết.’”
Câu hỏi về tính chất của
loài lừa là thứ nhất.
Chủ Nhật, 29 tháng 12, 2013
SỐNG ĐỜI PHẠM HẠNH
“Đức vua nhìn các vị tỳ
khưu sống ở rừng đã được gắn bó với các hạnh từ khước, rồi nhìn lại những người
tại gia đã trú ở quả vị Bất Lai.
Sau khi quan sát cả hai
hạng ấy, có nỗi nghi hoặc lớn đã khởi lên: ‘Nếu người tại gia có thể giác ngộ
Giáo Pháp, thì pháp từ khước là không có kết quả.
Vậy ta nên hỏi vị thuyết
giảng hạng nhất, được thông thạo về Tam Tạng, có sự nghiền nát học thuyết của
các diễn giả khác, vị ấy sẽ tiêu diệt nỗi nghi ngờ của ta.”
1. Khi ấy, đức vua
Milinda đã đi đến gặp đại đức Nāgasena, sau khi đến đã đảnh lễ đại đức Nāgasena
rồi ngồi xuống một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đức vua Milinda đã nói với đại
đức Nāgasena điều này: “Thưa ngài Nāgasena, có người tại gia nào, sống ở nhà,
trong khi sinh sống có sự thọ hưởng các dục, có việc nằm chen chúc với vợ và
con, trong khi hưởng thụ vải Kāsi và trầm hương, trong khi đeo tràng hoa, vật
thơm, và vật thoa, trong khi ưng thuận vàng và bạc, buộc búi tóc có trang điểm
ngọc ma-ni, ngọc trai, và vàng, mà người ấy đã chứng ngộ sự an tịnh, mục đích tối
hậu, Niết Bàn, không?”
“Tâu đại vương, không phải
chỉ một trăm, không phải hai trăm, không phải ba bốn năm trăm, không phải một
ngàn, không phải một trăm koṭi,[3] không phải một ngàn koṭi, không phải một
trăm ngàn koṭi. Tâu đại vương, hãy bỏ qua sự lãnh hội của mười, của hai mươi, của
một trăm, của một ngàn (người tại gia), tôi có thể cho đại vương câu trả lời bằng
phương thức nào?”
“Chính ngài hãy nói về
điều ấy.”
“Tâu đại vương, như thế
thì tôi sẽ nói với đại vương về một trăm, hay một ngàn, hay một trăm ngàn, hay
một koṭi, hay một trăm koṭi, hay một ngàn koṭi, hay một trăm ngàn koṭi. Bất cứ
lời giảng nào về Phật Pháp gồm chín thể loại được liên quan đến sự thực hành hạnh
giảm thiểu và các yếu tố cao quý về hạnh từ khước, tất cả các lời giảng ấy sẽ tập
trung lại ở đây.
Tâu đại vương, giống như
nước đã được đổ mưa ở các phần đất lõm xuống hoặc nhô lên, bằng phẳng hoặc gồ
ghề, đất liền hay không phải đất liền, sau khi rơi xuống từng giọt ở khắp nơi rồi
từ đó tập trung lại ở đại dương biển cả. Tâu đại vương, tương tợ y như thế khi
có người tiếp nhận thì bất cứ lời giảng nào về Phật Pháp gồm chín thể loại được
liên quan đến sự thực hành hạnh giảm thiểu và các yếu tố cao quý về hạnh từ khước,
tất cả các lời giảng ấy sẽ tập trung lại ở đây.
Tâu đại vương, việc giải
nghĩa theo lý lẽ bằng kinh nghiệm và sự sáng suốt của tôi sẽ tập trung lại ở
đây, nhờ vậy ý nghĩa ấy sẽ khéo được phân tích, được thêm thắt, được đầy đủ, được
gom chung lại.
Tâu đại vương, giống như
vị thầy ghi chép thiện xảo, đã được chỉ dẫn, trong khi ghi lại bài viết thì
hoàn thiện bài viết với việc giải nghĩa theo lý lẽ bằng kinh nghiệm và sự sáng
suốt của bản thân, như vậy bài viết ấy sẽ được hoàn thành, được đầy đủ, không
thiếu sót. Tương tợ y như thế, việc giải nghĩa theo lý lẽ bằng kinh nghiệm và sự
sáng suốt của tôi sẽ tập trung lại ở đây, nhờ vậy ý nghĩa ấy sẽ khéo được phân
tích, được thêm thắt, được đầy đủ, được gom chung lại.
2. Tâu đại vương, ở
thành Sāvatthi, có khoảng năm koṭi (năm mươi triệu) Thánh đệ tử là các cận sự
nam và cận sự nữ của đức Thế Tôn, (trong số đó) ba trăm năm mươi bảy ngàn người
đã được thiết lập vào quả vị Bất Lai, tất cả những vị ấy đều là người tại gia,
họ không phải bậc xuất gia.
Thêm nữa, ở ngay tại nơi
ấy, vào lúc (thị hiện) song thông ở gốc cội cây gaṇḍamba, có hai mươi koṭi
(200.000.000) sinh mạng đã lãnh hội. Thêm nữa, vào lúc (thuyết giảng)
Mahārāhulovāda, Kinh Mahāmaṅgala, bài giảng về tâm bình lặng, Kinh Parābhava,
Kinh Purābheda, Kinh Kalahavivāda, Kinh Cūḷabyūha, Kinh Mahābyūha, Kinh Tuvaṭaka,
Kinh Sāriputta, đã có sự lãnh hội Giáo Pháp của chư Thiên với số lượng vượt trội
phương thức tính đếm.
Ở thành Rājagaha, ba
trăm năm mươi ngàn Thánh đệ tử của đức Thế Tôn là các cận sự nam và cận sự nữ.
Thêm nữa, ở ngay tại nơi ấy, vào lúc chế ngự con long tượng Dhanapāla có chín
mươi koṭi (900.000.000) sinh mạng đã lãnh hội; ở cuộc hội họp về mục đích tối hậu
ở điện thờ Pāsāṇaka có mười bốn koṭi (140.000.000) sinh mạng đã lãnh hội; thêm
nữa ở hang động Indasāla có tám mươi koṭi (800.000.000) chư Thiên đã lãnh hội;
thêm nữa ở thành Bārāṇasī, Isipatana, nơi vườn nai, vào lúc thuyết giảng Giáo
Pháp lần đầu tiên, có mười tám koṭi (180.000.000) Đại Phạm Thiên và vô số chư
Thiên đã lãnh hội; thêm nữa ở cõi trời Đạo Lợi, tại tảng đá Paṇḍukambala (ngai
vàng của đức Trời Đế Thích) vào lúc thuyết giảng về Vi Diệu Pháp, có tám mươi
koṭi (800.000.000) chư Thiên đã lãnh hội; vào lúc từ cõi trời trở lại trần gian
tại cổng thành Saṅkassa, vào lúc (thị hiện) thần thông mở ra cho thấy thế gian,
có ba mươi koṭi (300.000.000) nhân loại và chư Thiên được tịnh tín đã lãnh hội.
Thêm nữa, ở thành
Kapilavatthu của dòng họ Sakya, tại tu viện Nigrodha, lúc thuyết giảng về dòng
dõi chư Phật và lúc thuyết giảng về Kinh Mahāsamaya, đã có sự lãnh hội Giáo
Pháp của chư Thiên với số lượng vượt trội phương thức tính đếm. Thêm nữa, ở cuộc
gặp gỡ với người làm tràng hoa Sumana, ở cuộc gặp gỡ với Garahadinna, ở cuộc gặp
gỡ với nhà triệu phú Ānanda, ở cuộc gặp gỡ với đạo sĩ lõa thể Jambuka, ở cuộc gặp
gỡ với Thiên tử Maṇḍuka, ở cuộc gặp gỡ với Thiên tử Maṭṭakuṇḍali, ở cuộc gặp gỡ
với Sulasā hoa khôi thành phố, ở cuộc gặp gỡ với Sirimā hoa khôi thành phố, ở
cuộc gặp gỡ với người con gái thợ dệt, ở cuộc gặp gỡ với Cūlasubhaddā, ở cuộc gặp
gỡ về việc xem xét chỗ hỏa táng của người Bà-la-môn xứ Sāketa, ở cuộc gặp gỡ tại
Sunāparanta, ở cuộc gặp gỡ về câu hỏi của Thiên Chủ Sakka, ở cuộc gặp gỡ về
(bài Kinh) Tirokuḍḍa, ở cuộc gặp gỡ về Ratanasutta (Kinh Châu Báu), mỗi một lần
đã có sự lãnh hội Giáo Pháp của tám mươi bốn ngàn sinh mạng.
3. Tâu đại vương, trong
thời gian mà đức Thế Tôn đã ngự ở thế gian, thì trong thời gian ấy, tại mỗi một
nơi nào ở trong ba phạm vi thuộc mười sáu xứ sở lớn mà đức Thế Tôn đã trú ngụ,
thì ở tại mỗi một nơi ấy hầu hết đều có hai, ba, bốn, năm trăm, một ngàn, một
trăm ngàn chư Thiên và nhân loại đã chứng ngộ sự an tịnh, mục đích tối hậu, Niết
Bàn. Tâu đại vương, những vị nào là chư Thiên, những vị ấy cũng chính là người
tại gia, họ không phải bậc xuất gia. Tâu đại vương, những người này, và luôn cả
nhiều trăm ngàn koṭi (nhiều tỷ) chư Thiên khác nữa đều là người tại gia, sống ở
nhà, có sự thọ hưởng các dục, đã chứng ngộ sự an tịnh, mục đích tối hậu, Niết
Bàn.”
4. “Thưa ngài Nāgasena,
nếu những người tại gia, sống ở nhà, có sự thọ hưởng các dục, chứng ngộ sự an tịnh,
mục đích tối hậu, Niết Bàn, thế thì các pháp từ khước phục vụ mục đích gì? Vì
lý do ấy, các pháp từ khước là việc làm không thuộc về bổn phận. Thưa ngài
Nāgasena, nếu các cơn bệnh được lắng dịu không cần chú thuật và dược thảo, thì
cần gì với việc làm yếu đuối cơ thể bởi sự nôn mửa và xổ ruột, v.v...? Nếu sự
trấn áp kẻ thù nghịch là bằng các nắm tay, thì cần gì với gươm, giáo, tên,
cung, nỏ, đùi cui, chày vồ? Nếu có được việc leo lên cây sau khi bám vào chạng
cây, khúc cong, lỗ hổng, mầm gai, dây leo, cành cây, thì cần gì với việc tìm kiếm
cái thang dài và chắc chắn? Nếu có sự điều hòa tứ đại với việc nằm ở nền đất,
thì cần gì với việc tầm cầu giường nằm to lớn khổng lồ rực rỡ, có sự xúc chạm
thoải mái? Nếu mỗi một mình có khả năng vượt qua bãi sa mạc có sự nguy hiểm, có
sự sợ hãi, không bằng phẳng, thì cần gì với đoàn xe to lớn khổng lồ đã được chuẩn
bị, đã được vũ trang? Nếu có khả năng vượt qua sông hồ bằng cánh tay, thì cần
gì với việc tìm kiếm cây cầu và thuyền bè vững chắc? Nếu có thể làm ra thức ăn
thức mặc bằng vật sở hữu của bản thân, thì cần gì với việc hầu hạ, việc nói lời
thương mến, và việc lăng xăng chạy phía trước phía sau những kẻ khác? Nếu nước
được lấy ở hồ thiên nhiên, thì cần gì với việc đào giếng nước, ao, hồ? Thưa
ngài Nāgasena, tương tợ y như thế nếu những người tại gia, sống ở nhà, có sự thọ
hưởng các dục, chứng ngộ sự an tịnh, mục đích tối hậu, Niết Bàn, thì cần gì với
việc thọ trì cao quý về hạnh từ khước?”
5. “Tâu đại vương, hai
mươi tám đức tính này của các pháp từ khước là các đức tính đúng theo bản thể;
do những đức tính này, các pháp từ khước được chư Phật ước ao, mong mỏi. Hai
mươi tám đức tính nào? Tâu đại vương, ở đây pháp từ khước là sự nuôi mạng trong
sạch, có quả an lạc, không có tội lỗi, không gây đau khổ cho người khác, không
sợ hãi, không tự hành hạ mình, thuần túy liên quan đến sự tiến triển, không đưa
đến hư hoại, không giả dối, là sự bảo vệ, sự ban cho điều đã được mong mỏi, sự
huấn luyện cho tất cả chúng sanh, có sự thu thúc là lợi ích, là sự đúng đắn,
không bị lệ thuộc, được thoát ra khỏi, là sự diệt tận luyến ái, diệt tận sân,
diệt tận si, dứt bỏ ngã mạn, cắt đứt suy nghĩ xấu xa, vượt khỏi sự nghi hoặc,
tiêu diệt sự lười biếng, dứt bỏ sự không ưa thích, sự chịu đựng, không so sánh
được, không đo lường được, đưa đến sự diệt tận tất cả khổ đau. Tâu đại vương,
hai mươi tám đức tính này của các pháp từ khước là các đức tính đúng theo bản
thể; do những đức tính này, các pháp từ khước được chư Phật ước ao, mong mỏi.
Tâu đại vương, những người
nào thực hiện đúng đắn các hạnh từ khước, những người ấy là những người đi đến
hội hợp với mười tám đức tính. Với mười tám đức tính nào? Cách cư xử của những
vị ấy khéo được thanh tịnh, sự thực hành khéo được đầy đủ, thân khẩu khéo được
hộ trì, sự hành xử của ý khéo được thanh tịnh, sự tinh tấn khéo được nắm giữ, sợ
hãi được lắng xuống, tùy ngã kiến được xa lìa, sự căm hận được đình chỉ, tâm từ
được thiết lập, vật thực được nhận biết rõ rệt, được kính trọng đối với tất cả
chúng sanh, biết vừa đủ về vật thực, gắn liền với sự tỉnh thức, không cần chỗ
ngụ, nơi nào có sự thoải mái thì trú ngụ ở nơi ấy, có sự nhờm gớm về điều ác,
có sự thích thú nơi thanh vắng, thường xuyên không xao lãng. Tâu đại vương, những
người nào thực hiện đúng đắn các hạnh từ khước, những người ấy là những người
đi đến hội hợp với mười tám đức tính.
6. Tâu đại vương, mười hạng
người này là xứng đáng với hạnh từ khước. Mười hạng nào? Là người có đức tin,
có sự hổ thẹn (tội lỗi), có sự sáng suốt, không lường gạt, có khả năng đối với
mục đích, không tham, ưa thích sự học tập, có sự thọ trì kiên cố, không có nhiều
sự than phiền, có sự an trú tâm từ. Tâu đại vương, mười hạng người này là xứng
đáng với hạnh từ khước.
7. Tâu đại vương, những
người nào là người tại gia, sống ở nhà, có sự thọ hưởng các dục, chứng ngộ sự
an tịnh, mục đích tối hậu, Niết Bàn, tất cả những người ấy trong những kiếp sống
trước đây đã thực hành sự huấn luyện, đã thực hành các công việc căn bản trong
mười ba hạnh từ khước. Những người ấy, sau khi đã hoàn chỉnh cách cư xử và sự
thực hành ở tại nơi ấy, giờ đây hôm nay trong khi còn là người tại gia vẫn chứng
ngộ sự an tịnh, mục đích tối hậu, Niết Bàn.
Tâu đại vương, giống như
người cung thủ thiện xảo, trước tiên hết bắt những người học trò noi gương tập
luyện ở phòng huấn luyện về việc phân loại cây cung, việc nâng lên và nắm giữ
cây cung, việc kìm chặt nắm tay, việc cong lại ngón tay, việc đặt để bàn chân,
việc nắm lấy mũi tên, việc đặt vào, việc kéo căng ra, việc giữ chặt, việc nhắm
vào mục tiêu, việc buông ra, về việc xuyên thủng mục tiêu là hình nhân bằng cỏ,
bãi phân thú vật, đống cỏ, đống rơm, đống đất sét, tấm ván, sau khi hoàn thành
về thuật bắn cung trong sự hiện diện của đức vua thì được nhận lãnh ân huệ về
ngựa thuần chủng, xe kéo, voi, ngựa chiến, tài sản, thóc lúa, vàng khối, vàng
ròng, tôi trai, tớ gái, vợ, làng mạc.
Tâu đại vương, tương tợ
y như thế những người nào là người tại gia, sống ở nhà, có sự thọ hưởng các dục,
chứng ngộ sự an tịnh, mục đích tối hậu, Niết Bàn, tất cả những người ấy trong
những kiếp sống trước đây đã thực hành sự huấn luyện, đã thực hành các công việc
căn bản trong mười ba hạnh từ khước. Những người ấy, sau khi đã hoàn chỉnh cách
cư xử và sự thực hành ngay ở tại nơi ấy, giờ đây hôm nay trong khi còn là người
tại gia vẫn chứng ngộ an tịnh, mục đích tối hậu, Niết Bàn. Tâu đại vương, không
có sự luyện tập trước đây về các hạnh từ khước thì không có được sự chứng ngộ
phẩm vị A-la-hán chỉ trong một kiếp sống, hơn nữa với sự tinh tấn tột bực, với
sự thực hành tột bực, với người thầy có hình thức như thế, với người bạn tốt
lành thì có được sự chứng ngộ phẩm vị A-la-hán.
8. Tâu đại vương, hoặc
là giống như người thầy thuốc phẫu thuật sau khi đã làm hài lòng người thầy với
tài sản hoặc bằng việc thực hành phận sự, sau khi đã noi theo học tập công việc
cầm cây dao, việc cắt, việc rạch, việc xuyên thủng, việc rút ra cây tên, việc rửa
vết thương, việc làm khô, việc bôi thuốc, việc áp dụng dầu thơm cho việc nôn mửa
và việc xổ ruột, khi đã thực hành việc học tập về các kiến thức, đã thực hành sự
huấn luyện, đã thực hành tay nghề, thì đi thăm những người bệnh nhằm việc chữa
trị.
Tâu đại vương, tương tợ
y như thế những người nào là người tại gia, sống ở nhà, có sự thọ hưởng các dục,
chứng ngộ sự an tịnh, mục đích tối hậu, Niết Bàn, tất cả những người ấy trong
những kiếp sống trước đây đã thực hành sự huấn luyện, đã thực hành các công việc
căn bản trong mười ba hạnh từ khước. Những người ấy, sau khi đã hoàn chỉnh cách
cư xử và sự thực hành ngay ở tại nơi ấy, giờ đây hôm nay trong khi còn là người
tại gia vẫn chứng ngộ an tịnh, mục đích tối hậu, Niết Bàn. Tâu đại vương, không
có sự lãnh hội Giáo Pháp đối với những người chưa được hoàn thiện về các hạnh từ
khước.
Tâu đại vương, giống như
không có sự rưới nước thì không có sự mọc lên của hạt giống. Tâu đại vương,
tương tợ y như thế không có sự lãnh hội Giáo Pháp đối với những người chưa được
hoàn thiện về các hạnh từ khước.
Tâu đại vương, hoặc là
giống như không có việc đi đến cảnh giới tốt đẹp đối với những người đã không
làm các việc thiện, đã không làm các việc tốt. Tâu đại vương, tương tợ y như thế
không có sự lãnh hội Giáo Pháp đối với những người chưa được hoàn thiện về các
hạnh từ khước.
9. Tâu đại vương, đối với
những người có ước muốn về sự thanh tịnh, thì hạnh từ khước ví như trái đất
theo ý nghĩa nơi nâng đỡ.
Tâu đại vương, đối với
những người có ước muốn về sự thanh tịnh, hạnh từ khước ví như nước theo ý
nghĩa rửa sạch tất cả bợn nhơ phiền não.
Tâu đại vương, đối với
những người có ước muốn về sự thanh tịnh, hạnh từ khước ví như ngọn lửa theo ý
nghĩa thiêu đốt tất cả cánh rừng phiền não.
Tâu đại vương, đối với
những người có ước muốn về sự thanh tịnh, hạnh từ khước ví như gió theo ý nghĩa
thổi đi tất cả bợn nhơ bụi bặm về phiền não.
Tâu đại vương, đối với
những người có ước muốn về sự thanh tịnh, hạnh từ khước ví như thuốc giải độc
theo ý nghĩa làm lắng dịu tất cả tật bệnh về phiền não.
Tâu đại vương, đối với
những người có ước muốn về sự thanh tịnh, hạnh từ khước ví như thuốc bất tử
theo ý nghĩa tiêu diệt tất cả chất độc phiền não.
Tâu đại vương, đối với
những người có ước muốn về sự thanh tịnh, hạnh từ khước ví như thửa ruộng theo
ý nghĩa làm mọc lên tất cả mùa màng về Sa-môn hạnh.
Tâu đại vương, đối với
những người có ước muốn về sự thanh tịnh, hạnh từ khước ví như ngọc như ý theo
ý nghĩa ban cho ân huệ về mọi sự thành tựu đã được mong mỏi, ước ao.
Tâu đại vương, đối với
những người có ước muốn về sự thanh tịnh, hạnh từ khước ví như chiếc thuyền
theo ý nghĩa đi đến bờ bên kia của đại dương luân hồi.
Tâu đại vương, đối với
những người có ước muốn về sự thanh tịnh, hạnh từ khước ví như chốn nương nhờ
cho người bị sợ hãi theo ý nghĩa việc làm an ủi cho những người sợ hãi sự già
và sự chết.
Tâu đại vương, đối với
những người có ước muốn về sự thanh tịnh, hạnh từ khước ví như người mẹ theo ý
nghĩa người hỗ trợ cho những người bị áp bức bởi phiền não khổ đau.
Tâu đại vương, đối với
những người có ước muốn về sự thanh tịnh, hạnh từ khước ví như người cha theo ý
nghĩa người sanh ra tất cả Sa-môn hạnh cho những người có ước muốn tăng trưởng
thiện pháp.
Tâu đại vương, đối với
những người có ước muốn về sự thanh tịnh, hạnh từ khước ví như người bạn theo ý
nghĩa không lường gạt trong việc tầm cầu tất cả Sa-môn hạnh.
Tâu đại vương, đối với
những người có ước muốn về sự thanh tịnh, hạnh từ khước ví như loài sen theo ý
nghĩa không bị lấm lem bởi mọi phiền não ô nhiễm.
Tâu đại vương, đối với
những người có ước muốn về sự thanh tịnh, hạnh từ khước ví như bốn loại hương
thơm cao quý theo ý nghĩa xua đuổi mùi thối của phiền não.
Tâu đại vương, đối với
những người có ước muốn về sự thanh tịnh, hạnh từ khước ví như núi chúa cao quý
theo ý nghĩa không bị lay động bởi các ngọn gió của tám pháp thế gian.
Tâu đại vương, đối với
những người có ước muốn về sự thanh tịnh, hạnh từ khước ví như không trung theo
ý nghĩa bao la, tỏa ra, rộng, lớn đối với việc bám víu ở mọi nơi đã được tách rời.
Tâu đại vương, đối với
những người có ước muốn về sự thanh tịnh, hạnh từ khước ví như dòng sông theo ý
nghĩa chuyển tải các bợn nhơ phiền não.
Tâu đại vương, đối với
những người có ước muốn về sự thanh tịnh, hạnh từ khước ví như người dẫn đường
giỏi theo ý nghĩa thoát ra khỏi sa mạc của sự sanh và vùng rậm rạp của khu rừng
phiền não.
Tâu đại vương, đối với
những người có ước muốn về sự thanh tịnh, hạnh từ khước ví như người hướng dẫn
đoàn xe vĩ đại theo ý nghĩa đạt đến thành phố Niết Bàn cao quý và ưu tú, không
sợ hãi, an toàn, và không còn tất cả các sự sợ hãi.
Tâu đại vương, đối với
những người có ước muốn về sự thanh tịnh, hạnh từ khước ví như tấm gương được
chùi kỹ lưỡng không vết nhơ theo ý nghĩa nhìn thấy bản thể thật của các hành.
Tâu đại vương, đối với
những người có ước muốn về sự thanh tịnh, hạnh từ khước ví như tấm mộc che theo
ý nghĩa ngăn chặn tất cả các cây gậy, mũi tên, gươm đao phiền não.
Tâu đại vương, đối với
những người có ước muốn về sự thanh tịnh, hạnh từ khước ví như chiếc lọng che
theo ý nghĩa ngăn chặn cơn mưa phiền não và sức đốt nóng của ngọn lửa gồm ba loại.
Tâu đại vương, đối với
những người có ước muốn về sự thanh tịnh, hạnh từ khước ví như mặt trăng theo ý
nghĩa được ước muốn, được mong cầu.
Tâu đại vương, đối với những
người có ước muốn về sự thanh tịnh, hạnh từ khước ví như mặt trời theo ý nghĩa
tiêu diệt sự tăm tối của bóng tối si mê.
Tâu đại vương, đối với
những người có ước muốn về sự thanh tịnh, hạnh từ khước ví như biển cả theo ý
nghĩa nâng cao các viên ngọc quý giá về đức hạnh Sa-môn và theo ý nghĩa không
đo lường được, không thể tính toán, không thể ước lượng.
10. Tâu đại vương, như vậy
hạnh từ khước đối với những người có ước muốn về sự thanh tịnh là có nhiều sự
giúp đỡ, xua đi mọi sự khó chịu và bực bội, xua đi sự không thích thú, xua đi nỗi
sợ hãi, xua đi sự hiện hữu, xua đi sự cứng nhắc (của tâm), xua đi ô nhiễm, xua
đi sầu muộn, xua đi khổ đau, xua đi ái luyến, xua đi sân hận, xua đi si mê, xua
đi ngã mạn, xua đi tà kiến, xua đi tất cả các pháp bất thiện, đem lại danh tiếng,
đem lại lợi ích, đem lại an lạc, tạo sự thoải mái, tạo sự vui vẻ, tạo sự an
toàn đối với các trói buộc, không có tội lỗi, có quả thành tựu dễ chịu và an lạc,
là khối đức hạnh, là đống đức hạnh, có đức hạnh vô lường, vô lượng, cao quý, ưu
tú, tối thắng.
Tâu đại vương, giống như
loài người nhờ cậy vật thực vì muốn sự nâng đỡ, nhờ cậy thuốc men vì muốn sự lợi
ích, nhờ cậy bạn bè vì muốn sự giúp đỡ, nhờ cậy chiếc thuyền vì muốn sự vượt
qua, nhờ cậy mùi thơm của tràng hoa vì muốn mùi thơm tốt, nhờ cậy chỗ ẩn náu đối
với sự sợ hãi vì muốn sự không còn sợ hãi, nhờ cậy trái đất vì muốn chỗ nâng đỡ,
nhờ cậy người thầy vì muốn nghề nghiệp, nhờ cậy đức vua vì muốn danh vọng, nhờ
cậy ngọc báu ma-ni vì muốn sự ban cho điều ước muốn. Tâu đại vương, tương tợ y
như thế các bậc Thánh nhờ cậy hạnh từ khước vì muốn sự ban phát tất cả đức hạnh
của vị Sa-môn.
11. Tâu đại vương, hoặc
là giống như nước nhằm việc tăng trưởng của hạt giống, lửa nhằm việc thiêu đốt,
thực phẩm nhằm mang lại sức mạnh, dây leo vì sự trói buộc, dao vì việc cắt đứt,
nước uống nhằm việc xua đuổi cơn khát, của chôn giấu nhằm sự an tâm, chiếc thuyền
nhằm việc đạt đến bờ, thuốc men nhằm làm lắng dịu cơn bệnh, xe cộ nhằm việc đi
lại được an lạc, chỗ ẩn náu đối với sự sợ hãi nhằm xua đi nỗi sợ hãi, đức vua
nhằm mục đích bảo vệ, tấm mộc che nhằm ngăn chặn roi vọt, đất cục, gậy gộc, mũi
tên, gươm đao, thầy giáo nhằm việc chỉ dạy, người mẹ nhằm việc nuôi dưỡng, tấm
gương nhằm việc nhìn xem, đồ trang sức vì sắc đẹp, vải vóc nhằm việc che đậy,
cái thang nhằm việc leo lên, cái cân nhằm loại bỏ, chú thuật để đọc lẩm nhẩm,
vũ khí nhằm ngăn chặn sự hăm dọa, ngọn đèn nhằm tiêu diệt bóng tối, gió nhằm dập
tắt sự nóng nực, nghề nghiệp nhằm thành tựu sự sinh sống, thuốc giải độc nhằm bảo
vệ mạng sống, hầm mỏ nhằm sản xuất châu ngọc, châu ngọc nhằm để trang điểm, mệnh
lệnh nhằm việc không vượt qua, uy quyền nhằm vận hành mệnh lệnh.
Tâu đại vương, tương tợ
y như thế hạnh từ khước nhằm việc tăng trưởng hạt giống Sa-môn, nhằm việc thiêu
đốt bợn nhơ phiền não, nhằm mang lại năng lực của thần thông, nhằm buộc chặt sự
thu thúc ở niệm, nhằm cắt đứt sự phân vân và nghi ngờ, nhằm xua đuổi sự khát
khao về tham ái, nhằm tạo ra sự an tâm trong việc lãnh hội, nhằm thoát ra khỏi
bốn dòng nước lũ, nhằm lắng dịu cơn bệnh phiền não, nhằm đạt được an lạc Niết
Bàn, nhằm xua đi nỗi sợ hãi về sanh già bệnh chết sầu bi khổ ưu não, nhằm bảo vệ
các đức hạnh của Sa-môn, nhằm ngăn chặn sự không ưa thích và các suy nghĩ xấu
xa, nhằm chỉ dạy toàn thể mục đích của đời sống Sa-môn, nhằm nuôi dưỡng tất cả
các đức hạnh của đời sống Sa-môn, nhằm việc xem xét về chỉ tịnh, minh sát, Đạo,
Quả, và Niết Bàn, nhằm tạo ra vẻ đẹp lớn lao vĩ đại đã được tán dương, khen ngợi
bởi toàn thể thế gian, nhằm đóng lại tất cả đọa xứ, nhằm leo lên đỉnh chóp núi
đá của mục đích đời sống Sa-môn, nhằm loại bỏ tâm cong, quẹo, sai trái, nhằm
làm cho việc học tập tốt đẹp về các pháp nên thân cận và không nên thân cận, nhằm
hăm dọa kẻ thù là mũi tên phiền não, nhằm tiêu diệt bóng tối vô minh, nhằm dập
tắt sự đốt nóng và sự nóng nực của ngọn lửa gồm ba loại, nhằm thành tựu sự chứng
đạt sự an tịnh tinh vi và tế nhị, nhằm bảo vệ đức hạnh của toàn bộ đời sống
Sa-môn, nhằm sản xuất châu ngọc quý giá là các chi phần đưa đến giác ngộ, nhằm
để trang điểm người hành giả, nhằm việc không vượt qua sự an lạc của trạng thái
an tịnh không tội lỗi, khôn khéo, tế nhị, nhằm vận hành uy lực của Thánh pháp ở
toàn bộ đời sống Sa-môn. Tâu đại vương, như vậy mỗi một hạnh từ khước là nhằm
đưa đến sự chứng đạt các đức hạnh này. Tâu đại vương, như vậy ‘hạnh từ khước là
không thể so sánh, không thể đo lường, không sánh bằng được, không vật tương
đương, không vật đối chiếu, không vật trội hơn, là vô thượng, hàng đầu, đặc biệt,
vượt trội, trải dài, bao la, tỏa ra, vươn rộng, quan trọng, nghiêm trọng, vĩ đại.’
12. Tâu đại vương, cá
nhân nào có ước muốn xấu xa, bị thúc đẩy bởi ước muốn, gian xảo, tham lam, quan
tâm đến bao tử, mong muốn lợi lộc, mong muốn danh vọng, mong muốn tiếng tăm,
không thích hợp, không đạt yêu cầu, không thích đáng, không xứng đáng, không
phù hợp mà thọ trì hạnh từ khước, kẻ ấy gánh chịu hai lần hình phạt, gánh chịu
sự phá hại tất cả các đức hạnh, trong thời hiện tại nhận lấy sự khinh bỉ, khinh
miệt, chê trách, chế nhạo, giễu cợt, sự không thọ hưởng chung, sự xua đuổi, sự
tống khứ, sự đưa đẩy, sự trục xuất, thậm chí ở thời vị lai kẻ ấy, trong nhiều
trăm ngàn koṭi (nhiều tỷ) năm, bị nung nấu quay tròn lẫn lộn với bọt nước ở bề
mặt, ở hướng trên, ở hướng dưới, ở hướng ngang, trong quầng lưới lửa nóng bỏng,
sôi sục, cháy nóng, cháy rực ở đại địa ngục vô gián rộng một trăm do-tuần, sau
khi được thoát ra khỏi nơi ấy, thì có cơ thể và tứ chi gầy ốm, thô kệch, đen đủi,
cái đầu bị sưng, phồng lên, có lỗ thủng với vô số muỗi bám, bị đói, bị khát, có
hình thể dáng vóc không đồng đều, khủng khiếp, có lỗ tai bị tơi tả, có tròng
con mắt mở ra nhắm lại, có cơ thể bị thương tích, cơ thể bị thối rữa, toàn bộ
thân thể lúc nhúc giòi bọ, có ngọn lửa đang đốt cháy đang phát cháy ở bên
trong, tợ như đang đốt cháy ở đầu ngọn gió, không sự bảo vệ, không sự nương nhờ,
đang than vãn tiếng khóc tỉ tê, nức nở, bi thương, sau khi trở thành hạng ngạ
quỷ to lớn có hình dáng Sa-môn luôn bị dằn vặt bởi sự khao khát, đi lang thang ở
trái đất, có giọng kêu gào thảm thiết.
Tâu đại vương, giống như
người nào đó không thích hợp, không đạt yêu cầu, không thích đáng, không xứng
đáng, không phù hợp, kém cỏi, có dòng dõi xấu xa mà phong vương với lễ đăng
quang của dòng Sát-đế-lỵ, kẻ ấy nhận chịu việc bị chặt bàn tay, chặt bàn chân,
chặt bàn tay và bàn chân, cắt tai, xẻo mũi, cắt tai và xẻo mũi, (nhúng vào) hũ
giấm chua, cạo đầu bôi vôi, đốt lửa ở miệng, thiêu sống, đốt cháy ở bàn tay, lột
da thành sợi, mặc y phục vỏ cây, kéo căng thân người ở trên đất, xiên da thịt bằng
lưỡi câu, khoét thịt thành đồng tiền, chà xát với chất kiềm, quay tròn ở trên
thập tự giá, ngồi ở ghế rơm, rưới bằng dầu sôi, cho những con chó gặm, đặt trên
giáo nhọn, chặt đầu bằng gươm, gánh chịu việc làm của nghiệp theo nhiều cách.
Vì lý do gì? Kẻ không thích hợp, không đạt yêu cầu, không thích đáng, không xứng
đáng, không phù hợp, kém cỏi, có dòng dõi xấu xa, đã đặt bản thân vào địa vị
vương quyền to lớn, đã thủ tiêu ranh giới. Tâu đại vương, tương tợ y như thế cá
nhân nào có ước muốn xấu xa, —(như trên)— ở trái đất, có giọng kêu gào thảm thiết.
13. Tâu đại vương, tuy
nhiên cá nhân nào thích hợp, đạt yêu cầu, thích đáng, xứng đáng, phù hợp, ít
ham muốn, tự biết đủ, sống tách ly, không giao du, có sự nỗ lực tinh tấn, có bản
tánh cương quyết, không gian trá, không xảo quyệt, không quan tâm đến bao tử,
không mong muốn lợi lộc, không mong muốn danh vọng, không mong muốn tiếng tăm,
có đức tin, xuất gia vì đức tin, mong muốn thoát khỏi già chết, (nghĩ rằng):
‘Ta sẽ hiểu được Giáo Pháp’ rồi thọ trì hạnh từ khước, vị ấy xứng đáng sự cúng
dường gấp hai lần, đối với chư Thiên và loài người là vị được yêu mến, được ưa
thích, được ước muốn, được mong cầu, như là bông hoa của các loài hoa nhài
trâu, nhài Ả-rập, v.v... đối với người đã được tắm đã được thoa dầu, như là thức
ăn hảo hạng đối với người bị thèm ăn, như là nước uống mát sạch thơm tho đối với
người bị khát, như là dược thảo cao quý đối với người bị nhiễm độc, như là cỗ
xe ngựa thuần chủng cao quý tối thượng đối với người mong muốn đi nhanh, như là
ngọc quý ma-ni như ý đối với người có ước muốn về mục đích, như là chiếc lọng
trắng trong sạch không bợn nhơ đối với người có ước muốn được phong vương, như
là sự chứng đắc vô thượng của quả vị A-la-hán đối với người có ước muốn về Giáo
Pháp. Đối với vị ấy, bốn sự thiết lập niệm nhờ vào sự tu tập đi đến tròn đủ; bốn
chánh cần, bốn nền tảng của thần thông, năm quyền, năm lực, bảy chi phần đưa đến
giác ngộ, Thánh đạo tám chi phần nhờ vào sự tu tập đi đến tròn đủ, chứng đắc chỉ
tịnh và minh sát, hoàn thiện sự thực hành của sự chứng đắc; bốn quả báu của đời
sống Sa-môn, bốn tuệ phân tích, ba Minh, sáu Thắng Trí, và toàn bộ pháp Sa-môn,
tất cả là thuộc về vị ấy. Vị ấy được phong vương với chiếc lọng trắng trong sạch
không bợn nhơ của sự giải thoát.
Tâu đại vương, giống như
đối với vị vua dòng Sát-đế-lỵ, sanh ra ở nơi quý phái, có dòng dõi gia tộc, đã
được phong vương với lễ đăng quang của dòng Sát-đế-lỵ, thì có các thị dân, dân
chúng, nhân công, binh lính thuộc vương quốc phục tùng, và ba mươi tám toán tùy
tùng của đức vua, các kịch sĩ và vũ công, những người tiên đoán điềm lành, những
người nói lời chúc tụng, các Sa-môn, Bà-la-môn, tất cả các nhóm người ngoại đạo
tìm đến; bất cứ việc gì ở trái đất như là bến tàu, hầm mỏ châu báu, thành phố,
trạm thuế, các người khác xứ, việc xử chặt, việc xử chém, việc chỉ thị dân
chúng, vị vua ấy trở thành người chủ ở tất cả các nơi. Tâu đại vương, tương tợ
y như thế cá nhân nào thích hợp, đạt yêu cầu, —(như trên)— được phong vương với
chiếc lọng trắng trong sạch không bợn nhơ của sự giải thoát.
14. Tâu đại vương, đây
là mười ba pháp từ khước, được làm trong sạch với các pháp này, (vị tỳ khưu) tiến
vào đại dương Niết Bàn, tiêu khiển trò tiêu khiển của Giáo Pháp có nhiều loại,
rồi tiến đến tám sự chứng đạt của sắc giới và vô sắc giới, đạt được nhiều loại
thần thông, Thiên nhĩ giới, nhận biết tâm của người khác, nhớ lại các kiếp sống
quá khứ, Thiên nhãn, và sự diệt tận tất cả các lậu hoặc. Mười ba pháp nào? Pháp
của vị chỉ mặc y may bằng vải bị quăng bỏ, pháp của vị chỉ sử dụng ba y, pháp của
vị chuyên đi khất thực, pháp của vị đi khất thực tuần tự theo từng nhà, pháp của
vị chỉ một chỗ ngồi (khi thọ thực), pháp của vị thọ thực trong bình bát, pháp của
vị không ăn vật thực dâng sau, pháp của vị ngụ ở rừng, pháp của vị ngụ ở gốc
cây, pháp của vị ở ngoài trời, pháp của vị ngụ ở mộ địa, pháp của vị ngụ chỗ ở
theo chỉ định, pháp của vị chuyên về oai nghi ngồi (không nằm). Tâu đại vương,
với mười ba hạnh từ khước này đã được thân cận, đã được thành thạo, đã được thực
hành, đã được hoàn thiện, đã được hành xử, đã được tiếp cận, đã được tròn đủ
trước đây mà (bây giờ) đạt được toàn bộ đời sống Sa-môn; toàn bộ các sự chứng đạt
tịch tịnh, an lạc là thuộc về vị ấy.
Tâu đại vương, giống như
người thuyền trưởng, có tài sản, đã thực hiện tốt đẹp phần thuế ở bến tàu, thì
tiến vào đại dương rồi đi đến các xứ Vaṅga, Takkola, Cīna, Sovīra, Suraṭṭha,
Alasanda, Kolapaṭṭa, Suvaṇṇabhūmi, luôn cả bất cứ chỗ nào khác là nơi lai vãng
của tàu bè. Tâu đại vương, tương tợ y như thế với mười ba hạnh từ khước này đã
được thân cận, đã được thành thạo, đã được thực hành, đã được hoàn thiện, đã được
hành xử, đã được tiếp cận, đã được tròn đủ trước đây mà (bây giờ) đạt được toàn
bộ đời sống Sa-môn; toàn bộ các sự chứng đạt tịch tịnh, an lạc là thuộc về vị ấy.
Tâu đại vương, giống như
người nông dân trước tiên dời đi các khuyết điểm của thửa ruộng như là cỏ, cành
khô, đá sỏi, rồi cày xới, gieo hạt, đưa nước vào đúng đắn, bảo vệ, giữ gìn, rồi
với việc giặt hái đập giũ mà trở thành người có nhiều thóc lúa, những người nào
không có tài sản, khốn khổ, nghèo khó, người lâm cảnh bất hạnh là thuộc về người
ấy. Tâu đại vương, tương tợ y như thế với mười ba hạnh từ khước này đã được
thân cận, đã được thành thạo, —(như trên)— toàn bộ các sự chứng đạt tịch tịnh,
an lạc là thuộc về vị ấy.
Tâu đại vương, hoặc là
giống như vị Sát-đế-lỵ đã được làm lễ phong vương ở đầu, đã được sanh ra ở nơi
quý phái, có dòng dõi gia tộc, là người chúa tể trong việc xử chặt, xử chém, chỉ
thị dân chúng, có sự thể hiện các quyền lực, là người chủ có hành động theo như
ước muốn, và toàn bộ đại địa cầu là thuộc về vị ấy. Tâu đại vương, tương tợ y
như thế với mười ba hạnh từ khước này đã được thân cận, đã được thành thạo, đã
được thực hành, đã được hoàn thiện, đã được hành xử, đã được tiếp cận, đã được
tròn đủ trước đây mà (bây giờ) trở thành vị chúa tể ở Giáo Pháp cao quý của đấng
Chiến Thắng, có sự thể hiện các quyền lực, là người chủ có hành động theo như ước
muốn; và toàn bộ các đức hạnh của đời sống Sa-môn là thuộc về vị ấy.
15. Tâu đại vương, chẳng
phải trưởng lão Upasena, con trai của Vaṅganta, với sự thực hành đầy đủ các hạnh
giảm thiểu và từ khước, sau khi không chấp hành quy định của hội chúng ở
Sāvatthi, đã cùng tập thể của mình đi đến gặp đấng Điều Ngự Trượng Phu đang thiền
tịnh, đã đê đầu đảnh lễ hai bàn chân của đức Thế Tôn, rồi đã ngồi xuống một
bên. Và đức Thế Tôn sau khi nhìn thấy tập thể đã khéo được huấn luyện ấy, thì mừng
rỡ, phấn chấn, vui mừng, phấn khởi, sau khi trao đổi chuyện trò với tập thể, rồi
với giọng nói của Phạm Thiên không bị lẫn lộn, đã nói điều này:
‘Này Upasena, tập thể
này quả là có niềm tin đối với ngươi. Này Upasena, ngươi hướng dẫn tập thể thế
nào?’ Được đấng Toàn Tri, bậc Mười Lực, vị Trời vượt trội các vị Trời hỏi, vị ấy
bằng năng lực về đức hạnh của tự thân đúng theo sự thật, cũng đã nói với đức Thế
Tôn điều này: - Bạch ngài, người nào đi đến và cầu xin con sự xuất gia, hoặc
pháp nương nhờ, thì con nói với người ấy như vầy: ‘Này đạo hữu, ta là vị hành
pháp ngụ ở rừng, hành pháp chuyên đi khất thực, hành pháp chỉ mặc y may bằng vải
bị quăng bỏ, hành pháp chỉ sử dụng ba y. Nếu ngươi cũng sẽ là vị hành pháp ngụ ở
rừng, hành pháp chuyên đi khất thực, hành pháp chỉ mặc y may bằng vải bị quăng
bỏ, hành pháp chỉ sử dụng ba y, như thế thì ta sẽ cho ngươi xuất gia, sẽ ban
cho pháp nương nhờ.’ Thưa ngài, nếu người ấy sau khi đã đồng ý với con, vui vẻ,
hứng thú, như vậy thì con cho người ấy xuất gia, con ban cho pháp nương nhờ. Bạch
ngài, con hướng dẫn tập thể như thế.’ Tâu đại vương, cũng như thế, người thọ
trì đức hạnh cao quý của các pháp từ khước là vị chúa tể ở Giáo Pháp cao quý của
đấng Chiến Thắng, có sự thể hiện các quyền lực, là người chủ có hành động theo
như ước muốn; toàn bộ các sự chứng đạt tịch tịnh, an lạc là thuộc về vị ấy.
Tâu đại vương, giống như
hoa sen, có nguồn gốc, sanh trưởng, mọc lên trong sạch cho đến lúc trưởng
thành, là trơn láng, mềm mại, đáng ham thích, có mùi thơm tốt, được yêu mến, được
mong cầu, được ca tụng, không bị lấm lem bởi nước và bùn, được tô điểm bởi những
cánh hoa nhỏ, tua nhị, quả sen, được lai vãng bởi bầy ong, được phát triển ở nước
mát lạnh. Tâu đại vương, tương tợ y như thế với mười ba hạnh từ khước này đã được
thân cận, đã được thành thạo, đã được thực hành, đã được hoàn thiện, đã được
hành xử, đã được tiếp cận, đã được tròn đủ trước đây mà (bây giờ) các vị đệ tử
của bậc Thánh được đầy đủ với ba mươi đức tính cao quý. Với ba mươi đức tính
cao quý nào?
Là có tâm từ trìu mến, mềm
mỏng, dịu dàng; là có phiền não được tiêu diệt, được phá hủy, được tiêu hoại;
là có sự ngã mạn và sự kiêu ngạo được phá hủy, được diệt trừ; là có đức tin
không dao động, vững chãi, được củng cố, không có phân vân; là nhận được sự chứng
đạt trọn vẹn, được thỏa mãn, được mừng rỡ, đáng ham thích, tịch tịnh, an lạc;
là được thấm nhuần bởi hương thơm cao quý, ưu tú, vô song, tinh khiết của giới;
là đối tượng yêu quý, ưa thích của chư Thiên và nhân loại; được các bậc Lậu Tận,
các Thánh nhân, và các nhân vật cao quý mong mỏi; được đảnh lễ, cúng dường đối
với chư Thiên và nhân loại; được tán dương, ca ngợi, khen ngợi, ca tụng của những
con người khôn ngoan, thông minh, sáng suốt; không bị lấm lem bởi thế gian ở đời
này hay ở đời khác; có sự nhìn thấy nỗi sợ hãi về chút ít tội lỗi ở thế gian;
có sự hoàn thành mục đích cao quý về Đạo và Quả của những người có sự mong muốn
các thành tựu lớn lao và cao quý; có phần về vật dụng lớn lao, hảo hạng đã được
(thí chủ) thỉnh cầu; có sự nằm nghỉ ở nơi không nhà; có sự an trú quý cao ở trạng
thái gắn bó với thiền; có nền móng của mạng lưới phiền não đã được tháo gỡ; sự
che lấp về cảnh giới tái sanh đã được phá vỡ, đập bể, co rút lại, chặt đứt; có
pháp bền vững; chỗ ngụ được phù hợp; có sự thọ hưởng không bị chê trách; được
thoát khỏi cảnh giới tái sanh; đã vượt lên trên tất cả hoài nghi; đã gắn bó vào
sự giải thoát; đã nhìn thấy Giáo Pháp; đã đi đến chốn nương nhờ vững chắc,
không dao động, đối với sự kinh sợ; có khuynh hướng ngủ ngầm đã được trừ tuyệt;
đã đạt đến sự cạn kiệt tất cả lậu hoặc; có nhiều sự chứng đạt và an trú về sự tịch
tịnh và sự an lạc; có đầy đủ tất cả đức tính của vị Sa-môn. Vị ấy được đầy đủ với
ba mươi đức tính cao quý này.
Tâu đại vương, chẳng phải
vị trưởng lão Sāriputta là con người cao cả ở mười ngàn thế giới, trừ ra đấng
Thập Lực, bậc thầy của thế gian? Ngay cả vị ấy, trong vô lượng vô số kiếp sống,
có thiện căn đã được tích lũy, có dòng dõi gia tộc Bà-la-môn, sau khi từ bỏ sự
hứng thú về dục lạc làm thích ý và tài sản quý giá nhiều trăm con số đếm, sau
khi xuất gia trong Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng, sau khi đã rèn luyện thân,
khẩu, ý với mười ba hạnh từ khước này, giờ đây hôm nay được hội đủ các đức hạnh
vô biên, đã được sanh làm người tiếp tục chuyển vận Bánh Xe Pháp của đức Thế
Tôn Gotama. Tâu đại vương, điều này cũng đã được đức Thế Tôn, vị Trời vượt trội
các vị Trời, nói đến ở đoạn Dấu Ấn Cao Quý, pháp Một Chi thuộc Tăng Chi Bộ rằng:
‘Này các tỳ khưu, ta
không nhìn thấy một cá nhân nào khác là người tiếp tục chuyển vận một cách đúng
đắn Bánh xe Pháp vô thượng đã được chuyển vận bởi đức Như Lai như là Sāriputta.
Này các tỳ khưu, Sāriputta tiếp tục chuyển vận một cách đúng đắn Bánh xe Pháp
vô thượng đã được chuyển vận bởi đức Như Lai.’”
“Thưa ngài Nāgasena, tốt
lắm! Bất cứ lời dạy nào của đức Phật gồm chín thể loại, các hành động nào vượt
trên thế gian, và các sự chứng đạt vĩ đại cao quý nào của các sự chứng đắc ở thế
gian, mọi điều ấy đều đi đến sự hội tụ ở mười ba hạnh từ khước.”
Câu hỏi về pháp từ khước
là thứ nhì.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)