Thứ Bảy, 30 tháng 11, 2013
NIẾT BÀN
KHÔNG DO DUYÊN TẠO THÀNH
1. “Thưa ngài Nāgasena,
các vật sanh ra do nghiệp được thấy ở thế gian, sanh ra do nhân được thấy, sanh
ra do mùa tiết được thấy. Ở thế gian vật gì không sanh ra do nghiệp, không sanh
ra do nhân, không sanh ra do mùa tiết, xin ngài hãy nói về vật ấy cho trẫm.”
“Tâu đại vương, ở thế
gian hai vật này không sanh ra do nghiệp, không sanh ra do nhân, không sanh ra
do mùa tiết. Hai vật nào? Tâu đại vương, hư không không sanh ra do nghiệp,
không sanh ra do nhân, không sanh ra do mùa tiết. Tâu đại vương, Niết Bàn không
sanh ra do nghiệp, không sanh ra do nhân, không sanh ra do mùa tiết. Tâu đại
vương, đây là hai vật không sanh ra do nghiệp, không sanh ra do nhân, không
sanh ra do mùa tiết.”
“Thưa ngài Nāgasena, xin
ngài chớ bôi nhọ lời dạy của đấng Chiến Thắng. Không biết thì xin ngài chớ trả
lời câu hỏi.”
“Tâu đại vương, tôi nói
điều gì mà đại vương lại nói với tôi như vầy: ‘Thưa ngài Nāgasena, xin đại
vương chớ bôi nhọ lời dạy của đấng Chiến Thắng. Không biết thì xin đại vương chớ
trả lời câu hỏi’?”
“Thưa ngài Nāgasena, cho
đến điều này thì vẫn còn hợp lý để nói rằng: ‘Hư không không sanh ra do nghiệp,
không sanh ra do nhân, không sanh ra do mùa tiết.’ Thưa ngài Nāgasena, trái lại
đạo lộ đưa đến việc chứng ngộ Niết Bàn đã được đức Thế Tôn nói ra cho các đệ tử
bằng hàng trăm cách thức. Vậy mà ngài lại nói như vầy: ‘Niết Bàn không sanh ra
do nhân.’”
“Tâu đại vương, đúng vậy.
Đạo lộ đưa đến việc chứng ngộ Niết Bàn đã được đức Thế Tôn nói ra cho các đệ tử
bằng hàng trăm cách thức. Tuy nhiên, nhân làm sanh khởi Niết Bàn là không được
nói đến.”
2. “Thưa ngài Nāgasena, ở
đây chúng ta từ chỗ tối đi vào chỗ tối hơn, từ rừng đi vào rừng sâu hơn, từ bụi
rậm đi vào bụi rậm hơn, chính là vì cái điều gọi là có nhân đưa đến việc chứng
ngộ Niết Bàn, nhưng nhân làm sanh khởi pháp ấy lại không có. Thưa ngài Nāgasena,
nếu có nhân đưa đến việc chứng ngộ Niết Bàn, như thế thì cũng nên mong mỏi về
nhân làm sanh khởi Niết Bàn.
Thưa ngài Nāgasena, hoặc
là giống như có người cha của đứa con trai, vì lý do ấy cũng nên mong mỏi về
người cha của người cha. Giống như có người thầy của người học trò, vì lý do ấy
cũng nên mong mỏi về người thầy của người thầy. Giống như có hạt giống của cái
mầm non, vì lý do ấy cũng nên mong mỏi về hạt giống của hạt giống. Thưa ngài
Nāgasena, tương tợ y như thế nếu có nhân đưa đến việc chứng ngộ Niết Bàn, như
thế thì cũng nên mong mỏi về nhân làm sanh khởi Niết Bàn.
Giống như khi có ngọn của
thân cây hoặc của dây leo, vì lý do ấy cũng có phần thân, cũng có phần rễ. Thưa
ngài Nāgasena, tương tợ y như thế nếu có nhân đưa đến việc chứng ngộ Niết Bàn,
như thế thì cũng nên mong mỏi về nhân làm sanh khởi Niết Bàn.”
“Tâu đại vương, Niết Bàn
là không thể làm cho sanh được. Do đó, nhân làm sanh khởi Niết Bàn không được
nói đến.”
“Thưa ngài Nāgasena, vậy
thì sau khi đã chỉ cho thấy lý do, ngài hãy giúp cho trẫm hiểu bằng lý lẽ theo
đó trẫm có thể biết được rằng: ‘Có nhân đưa đến việc chứng ngộ Niết Bàn, còn
nhân làm sanh khởi Niết Bàn là không có.’”
3. “Tâu đại vương, như
thế thì đại vương hãy nghiêm chỉnh lắng tai, và hãy lắng nghe một cách cẩn thận,
tôi sẽ nói lý do trong trường hợp này. Tâu đại vương, có phải người nam, với sức
mạnh bình thường, từ nơi đây có thể đi đến núi chúa Hi-mã-lạp?”
“Thưa ngài, đúng vậy.”
“Tâu đại vương, vậy có
phải người nam ấy, với sức mạnh bình thường, có thể mang núi chúa Hi-mã-lạp đến
đây?”
“Thưa ngài, không đúng.”
“Tâu đại vương, tương tợ
y như thế có thể nói về đạo lộ đưa đến việc chứng ngộ Niết Bàn, nhưng không thể
chỉ cho thấy nhân làm sanh khởi Niết Bàn. Tâu đại vương, có phải người nam, với
sức mạnh bình thường, có thể vượt qua đại dương bằng thuyền để đi đến bờ xa
xa?”
“Thưa ngài, đúng vậy.”
“Tâu đại vương, vậy có
phải người nam ấy, với sức mạnh bình thường, có thể mang bờ xa xa của đại dương
đến đây?”
“Thưa ngài, không đúng.”
“Tâu đại vương, tương tợ
y như thế có thể nói về đạo lộ đưa đến việc chứng ngộ Niết Bàn, nhưng không thể
chỉ cho thấy nhân làm sanh khởi Niết Bàn. Vì lý do gì? Vì tính chất không bị tạo
tác của pháp.”
“Thưa ngài Nāgasena, có
phải Niết Bàn là không bị tạo tác?”
“Tâu đại vương, đúng vậy.
Niết Bàn là không bị tạo tác, không bị tạo ra bởi bất cứ cái gì. Tâu đại vương,
không nên nói Niết Bàn là ‘được sanh lên,’ hoặc là ‘không được sanh lên,’ hoặc
là ‘sẽ được làm cho sanh lên,’ hoặc là ‘quá khứ,’ hoặc là ‘hiện tại,’ hoặc là
‘vị lai,’ hoặc là ‘được nhận thức bởi mắt,’ hoặc là ‘được nhận thức bởi tai,’
hoặc là ‘được nhận thức bởi mũi,’ hoặc là ‘được nhận thức bởi lưỡi,’ hoặc là
‘được nhận thức bởi thân.’”
4. “Thưa ngài Nāgasena,
nếu Niết Bàn không phải là được sanh lên, không phải là không được sanh lên,
không phải là sẽ được làm cho sanh lên, không là quá khứ, không là hiện tại,
không là vị lai, không được nhận thức bởi mắt, không được nhận thức bởi tai,
không được nhận thức bởi mũi, không được nhận thức bởi lưỡi, không được nhận thức
bởi thân. Thưa ngài Nāgasena, như thế thì ngài đã chỉ ra Niết Bàn là pháp không
có, có phải là không có Niết Bàn?”
“Tâu đại vương, có Niết
Bàn. Niết Bàn được nhận thức bởi ý. Vị đệ tử của bậc Thánh thực hành đúng đắn với
tâm ý trong sạch, hướng thượng, ngay thẳng, không bị ngăn che, không liên hệ vật
chất thì nhìn thấy Niết Bàn.”
“Thưa ngài, vậy Niết Bàn
ấy giống cái gì? Cái ấy nên được làm sáng tỏ bằng các ví dụ. Xin ngài hãy giúp
cho trẫm hiểu bằng các lý lẽ theo đó pháp có thật là nên được làm sáng tỏ bằng
các ví dụ.”
5. “Tâu đại vương, có phải
có cái gọi là gió?”
“Thưa ngài, đúng vậy.”
“Tâu đại vương, vậy xin
ngài hãy chỉ cho thấy gió qua màu sắc, hoặc qua vị trí, hoặc là vi tế, hay thô
thiển, hoặc là dài, hay ngắn.”
“Thưa ngài Nāgasena,
không thể chỉ cho thấy gió được. Gió ấy không đáp ứng việc nắm bắt bằng bàn tay
hoặc sự đè nén. Tuy nhiên, gió ấy là có.”
“Tâu đại vương, nếu
không thể chỉ cho thấy gió, như thế thì gió là không có.”
“Thưa ngài Nāgasena, trẫm
biết rằng: ‘Gió là có.’ Nó đã đi vào trong tim của trẫm. Nhưng trẫm không có thể
chỉ cho thấy gió được.”
“Tâu đại vương, tương tợ
y như thế Niết Bàn là có. Nhưng không thể chỉ cho thấy Niết Bàn qua màu sắc, hoặc
qua vị trí.”
“Thưa ngài Nāgasena, tốt
lắm! Ví dụ đã khéo được phô bày. Lý lẽ đã khéo được giải thích. ‘Có Niết Bàn,’
trẫm chấp nhận điều này đúng theo như vậy.”
Thứ Sáu, 29 tháng 11, 2013
NHỮNG THỨ
KHÔNG THỂ CÓ TRÊN ĐỜI
1. “Thưa ngài Nāgasena,
chư Phật được thấy ở thế gian, chư Phật Độc Giác được thấy, các đệ tử của đức
Như Lai được thấy, các vị vua Chuyển Luân được thấy, các vị vua của các xứ sở
được thấy, chư Thiên và loài người được thấy, những người có tài sản được thấy,
những người không có tài sản được thấy, những người may mắn được thấy, những
người bất hạnh được thấy, tướng trạng người nữ xuất hiện ở người nam được thấy,
tướng trạng người nam xuất hiện ở người nữ được thấy, hành động khéo làm và vụng
làm được thấy, các chúng sanh thọ hưởng quả thành tựu của các nghiệp thiện và
ác được thấy. Có ở thế gian các chúng sanh hạng noãn sanh, hạng thai sanh, hạng
thấp sanh, hạng hóa sanh; có các chúng sanh không chân, hai chân, bốn chân, nhiều
chân. Có ở thế gian các hàng Dạ-xoa, quỷ sứ, người dạng quỷ, A-tu-la, người khổng
lồ, Càn-thát-bà, ngạ quỷ, yêu tinh; có các hạng chim đầu người, rắn chúa, long
vương, điểu vương, thầy phù thủy, thầy pháp; có các loài voi, ngựa, bò, trâu, lạc
đà, lừa, dê, cừu, nai, heo rừng, sư tử, cọp, beo, gấu, chó sói, linh cẩu, chó
hoang, chó rừng; có nhiều loại chim; có vàng, bạc, ngọc trai, ngọc ma-ni, vỏ
sò, đá, san-hô, hồng ngọc, ngọc mắt mèo, ngọc bích, kim cương, pha-lê, đồng
đen, đồng đỏ, đồng hỗn hợp, đồng thau; có sợi lanh, tơ lụa, bông vải, gai thô,
chỉ bố, sợi len; có lúa gạo sāli, lúa gạo, lúa mạch, kê, bắp, đậu varaka, lúa
mì, đậu tây, đậu māsa, mè, đậu tằm; có hương của rễ cây, hương của lõi cây,
hương của giác cây, hương của vỏ cây, hương của lá cây, hương của bông hoa,
hương của trái cây, hương thơm của tất cả các loại; có cỏ dại, dây leo, bụi rậm,
cây cối, dược thảo, cổ thụ, sông, núi, biển, cá, rùa. Tất cả có ở thế gian.
Thưa ngài, vật gì không có ở thế gian, xin ngài hãy nói về vật ấy cho trẫm.”
2. “Tâu đại vương, ba vật
này không có ở thế gian. Ba vật nào? Vật có tâm thức hoặc không có tâm thức mà
không già hoặc không chết là không có, tính chất thường còn của các hành là
không có, cái được thừa nhận là chúng sanh theo ý nghĩa rốt ráo là không có.
Tâu đại vương, đây là ba vật không có ở thế gian.”
“Thưa ngài Nāgasena, tốt
lắm! Trẫm chấp nhận điều này đúng theo như vậy.”
Thứ Năm, 28 tháng 11, 2013
NHỮNG CƠ SỞ
SAI BIỆT TRONG GIỚI LUẬT
1. “Thưa ngài Nāgasena,
có sự thất niệm đối với vị A-la-hán?” “Tâu đại vương, các vị A-la-hán có các sự
thất niệm đã được xa lìa. Đối với các vị A-la-hán không có sự thất niệm.”
“Thưa ngài, phải chăng vị
A-la-hán có thể vi phạm tội?”
“Tâu đại vương, đúng vậy.”
“Về sự việc gì?”
“Tâu đại vương, về việc
làm cốc liêu, về việc mai mối, vào lúc sái thời (lầm) tưởng là lúc đúng thời, về
vị đã ngăn (lầm) tưởng là chưa ngăn (vật thực dâng thêm), không phải thức ăn thừa
(lầm) tưởng là thức ăn thừa.”[9]
“Thưa ngài Nāgasena,
ngài nói rằng: ‘Những vị nào phạm tội, những vị ấy phạm bởi hai lý do: Vì không
tôn trọng hoặc là do không biết.’ Thưa ngài, có phải việc vị A-la-hán phạm tội
là vì vị A-la-hán có sự không tôn trọng?”
“Tâu đại vương, không
đúng.”
“Thưa ngài Nāgasena, nếu
vị A-la-hán phạm tội, và không có sự không tôn trọng ở vị A-la-hán, như thế thì
có sự thất niệm ở vị A-la-hán?”
“Tâu đại vương, không có
sự thất niệm ở vị A-la-hán, và có việc vị A-la-hán phạm tội.”
“Thưa ngài, như thế thì
xin ngài hãy giúp cho trẫm hiểu bằng lý lẽ. Ở đây, cái gì là lý do?”
2. “Tâu đại vương, đây
là hai loại ô nhiễm: ‘Tội lỗi đối với thế gian và tội lỗi do sự quy định.’ Tâu
đại vương, tội lỗi đối với thế gian là việc nào? Mười loại nghiệp bất thiện. Việc
này được gọi là tội lỗi đối với thế gian. Tội lỗi do sự quy định là việc nào?
Việc nào ở thế gian là không đúng đắn, không hợp lẽ đối với hàng Sa-môn, nhưng
không phải là tội lỗi đối với hàng tại gia, trong trường hợp ấy đức Thế Tôn quy
định điều học cho các đệ tử, cho đến trọn đời không được vượt qua. Tâu đại
vương, vật thực sái giờ không là tội lỗi đối với thế gian, điều ấy là tội lỗi ở
Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng. Việc làm tổn thương thảo mộc không là tội lỗi đối
với thế gian, điều ấy là tội lỗi ở Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng. Việc chơi giỡn
ở trong nước không là tội lỗi đối với thế gian, điều ấy là tội lỗi ở Giáo Pháp
của đấng Chiến Thắng. Tâu đại vương, các hình thức như thế và tương tợ là các tội
lỗi ở Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng. Việc này được gọi là tội lỗi do sự quy định.
Loại ô nhiễm nào là tội
lỗi đối với thế gian, bậc Lậu Tận không thể vi phạm việc ấy; còn loại ô nhiễm
nào là tội lỗi do sự quy định, trong khi không biết, có thể vi phạm việc ấy.
Tâu đại vương, đối với một vị A-la-hán thì không có trình độ để biết tất cả, bởi
vì đối với vị ấy không có năng lực để biết tất cả.
Tâu đại vương, đối với vị
A-la-hán tên họ của những người nữ người nam là không được biết; đối với vị ấy đường
xá ở trái đất là không được biết. Tâu đại vương, một vị A-la-hán có thể chỉ biết
về sự giải thoát. Vị A-la-hán có sáu Thắng Trí có thể biết về lãnh vực của
mình. Tâu đại vương, chỉ có đức Như Lai, đấng Toàn Tri, là biết tất cả.”
“Thưa ngài Nāgasena, tốt
lắm! Trẫm chấp nhận điều này đúng theo như vậy.”
Thứ Tư, 27 tháng 11, 2013
QUẢ VỊ VÔ LẬU
GIẢI THOÁT VÀ ĐỜI SỐNG CƯ SĨ
1. “Thưa ngài Nāgasena,
ngài nói rằng: ‘Người tại gia nào đạt đến phẩm vị A-la-hán, đối với vị này chỉ
có hai lối đi không có lối khác: xuất gia nội trong ngày ấy, hoặc viên tịch Niết
Bàn; ngày ấy là không thể vượt qua.’ Thưa ngài Nāgasena, nếu vị ấy, trong ngày
hôm ấy, không có được thầy tuyên ngôn, hoặc thầy tế độ, hoặc y và bình bát, có
phải vị A-la-hán ấy có thể tự mình xuất gia, hoặc có thể để cho ngày ấy trôi
qua? Hoặc có vị nào khác, là A-la-hán, có thần thông, đi đến rồi cho vị ấy xuất
gia? Hoặc có thể viên tịch Niết Bàn?”
“Tâu đại vương, vị
A-la-hán ấy không thể tự mình xuất gia, trong khi tự mình xuất gia thì phạm vào
việc trộm cắp (hình tướng). Và không thể để cho ngày ấy trôi qua. Nếu có thể hoặc
không thể có việc đi đến của vị A-la-hán khác, thì sẽ viên tịch Niết Bàn nội
trong ngày ấy.”
2. “Thưa ngài Nāgasena,
như thế thì bản thể an tịnh của vị A-la-hán là bị bỏ đi, bởi vì có sự lấy đi mạng
sống của vị đã chứng đắc.”
“Tâu đại vương, hình tướng
tại gia là không tương xứng. Khi hình tướng là không tương xứng, do tính chất yếu
ớt của hình tướng, người tại gia đạt được phẩm vị A-la-hán (phải) xuất gia, hoặc
viên tịch Niết Bàn nội trong ngày ấy. Tâu đại vương, điều ấy không phải là sự
sai trái của phẩm vị A-la-hán, điều ấy là sự sai trái của hình tướng tại gia, tức
là tính chất yếu ớt của hình tướng.
Tâu đại vương, giống như
vật thực là vật hộ trì tuổi thọ, là vật duy trì mạng sống của tất cả chúng
sanh, nhưng lại lấy đi mạng sống của người có bao tử không điều hòa, có sự hấp
thụ trì trệ yếu đuối, vì không tiêu hóa được. Tâu đại vương, điều ấy không phải
là sự sai trái của vật thực, điều ấy là sự sai trái của bao tử, tức là tính chất
yếu ớt của lửa. Tâu đại vương, tương tợ y như thế khi hình tướng là không tương
xứng, do tính chất yếu ớt của hình tướng, người tại gia đạt được phẩm vị
A-la-hán (phải) xuất gia, hoặc viên tịch Niết Bàn nội trong ngày ấy. Tâu đại
vương, điều ấy không phải là sự sai trái của phẩm vị A-la-hán, điều ấy là sự
sai trái của hình tướng tại gia, tức là tính chất yếu ớt của hình tướng.
3. Tâu đại vương, hoặc
là giống như cọng cỏ nhỏ nhoi khi bị tảng đá nặng đặt lên trên, thì bị dập nát,
đổ xuống vì tính chất yếu ớt. Tâu đại vương, tương tợ y như thế người tại gia đạt
được phẩm vị A-la-hán, vì hình tướng ấy không thể nâng đỡ phẩm vị A-la-hán, nên
(phải) xuất gia nội trong ngày ấy, hoặc viên tịch Niết Bàn.
Tâu đại vương, hoặc là
giống như người nam không có sức mạnh, yếu đuối, có dòng dõi thấp kém, phước
báu nhỏ nhoi, sau khi đạt được vương quốc to lớn khổng lồ, trong khoảnh khắc sẽ
sụp đổ, tiêu hoại, thối lui, không thể duy trì vương quyền. Tâu đại vương,
tương tợ y như thế người tại gia đạt được phẩm vị A-la-hán, vì hình tướng ấy
không thể nâng đỡ phẩm vị A-la-hán, nên (phải) xuất gia nội trong ngày ấy, hoặc
viên tịch Niết Bàn.”
“Thưa ngài Nāgasena, tốt
lắm! Trẫm chấp nhận điều này đúng theo như vậy.”
Thảo luận:
1. Một vị đạo sĩ
trong rừng sâu có tương đương với một tỳ kheo chăng?
2. Phải chăng những ai
mong cầu quả vị giáo ngộ hoàn toàn đều nên hướng nguyện xuất gia?
3. Xuất gia theo cách
"ehi bhikkhu" là thế nào? làm sao có được phúc quả đó?
4. Sự chứng đắc đạo
quả dễ hay khó do duyên nào?
5. Phải chăng hạnh tu cư
sĩ dễ nhập thế độ đời hơn đời xuất gia?
Thứ Tư, 20 tháng 11, 2013
KHÔNG PHẢI TẠI NỖ LỰC MÀ TẠI CỐ GẮNG KHÔNG ĐÚNG CHỖ
1. “Thưa ngài Nāgasena,
khi đức Bồ Tát thực hiện hành động khó thực hành (khổ hạnh), không nơi nào khác
đã có sự nỗ lực, sự cố gắng, sự chiến đấu với phiền não, sự làm tiêu tan đạo
binh của Thần Chết, sự kiêng vật thực, các hành động khó thực hành như thế này.
Ở sự gắng sức có hình thức như thế, đức Bồ Tát đã không đạt được bất cứ sự
khoái lạc nào, đã bỏ rơi chính tâm ý ấy, và đã nói như vầy: ‘Tuy nhiên, với việc
khổ hạnh dữ dội này Ta không chứng đắc các pháp thượng nhân, là pháp đặc biệt
thuộc về trí tuệ và sự thấy biết xứng đáng bậc Thánh. Có thể có chăng đạo lộ
nào khác đưa đến giác ngộ?’ Sau khi nhàm chán với việc ấy, bằng một đạo lộ khác
Ngài đã đạt đến bản thể Toàn Tri, rồi cũng vẫn chỉ dạy, khuyến khích các đệ tử
về đường lối thực hành ấy rằng:
‘Các ngươi hãy nỗ lực,
hãy cố gắng, hãy gắn bó vào lời dạy của đức Phật. Các ngươi hãy dẹp bỏ đạo binh
của Thần Chết, tợ như con voi phá bỏ căn chòi bằng lau sậy.’[3]
Thưa ngài Nāgasena, bởi
vì lý do gì đức Thế Tôn lại chỉ dạy, khuyến khích các đệ tử về đường lối thực
hành mà bản thân Ngài đã nhàm chán, có vẻ không còn quyến luyến về việc ấy?”
2. “Tâu đại vương, lúc ấy
cũng như hiện nay việc ấy vẫn là đường lối thực hành. Sau khi thực hành chính
đường lối thực hành ấy, đức Bồ Tát đã đạt đến bản thể Toàn Tri. Tâu đại vương,
thêm nữa đức Bồ Tát trong khi thực hành tinh tấn tột độ đã ngưng lại vật thực
không còn chút gì, do việc buộc ngưng lại vật thực của vị ấy mà sự yếu đuối của
tâm đã sanh khởi. Do sự yếu đuối ấy, vị ấy đã không thể đạt được bản thể Toàn
Tri. Trong khi sử dụng lại từng chút từng chút vật thực đã được vắt thành nắm,
rồi với chính đường lối thực hành ấy không bao lâu sau, vị ấy đã đạt được bản
thể Toàn Tri. Tâu đại vương, chính đường lối thực hành ấy đưa đến sự đạt được
Trí Toàn Tri của tất cả các đức Như Lai.
Tâu đại vương, giống như
vật thực là sự nâng đỡ cho tất cả chúng sanh, được nương tựa vào vật thực mà tất
cả chúng sanh nhận được sự an lạc. Tâu đại vương, tương tợ y như thế chính đường
lối thực hành ấy đưa đến sự đạt được Trí Toàn Tri của tất cả các đức Như Lai.
Tâu đại vương, sự sai trái khiến đức Như Lai, vào thời điểm ấy, đã không đạt được
Trí Toàn Tri không phải ở sự nỗ lực, không phải ở sự cố gắng, không phải ở sự
chiến đấu với phiền não; nhưng sự sai trái ấy chính là ở việc buộc ngưng lại vật
thực. Chính đường lối thực hành ấy luôn luôn được sẵn sàng.
Tâu đại vương, giống như
người nam có thể đi rất nhanh đoạn đường dài, vì thế người ấy có thể bị tổn
thương một bên (hông), hoặc có sự đi khập khiểng không tự đi lại được ở trên bề
mặt trái đất. Tâu đại vương, chẳng lẽ đại địa cầu cũng có sự sai trái khiến cho
người nam ấy đã bị tổn thương một bên (hông)?”
“Thưa ngài, không đúng.
Thưa ngài, đại địa cầu luôn luôn được sẵn sàng. Do đâu mà nó có sự sai trái? Sự
sai trái ấy chính là ở sự ra sức, vì nó mà người nam ấy đã tổn thương một bên
(hông).”
“Tâu đại vương, tương tợ
y như thế sự sai trái khiến đức Như Lai, vào thời điểm ấy, đã không đạt được
Trí Toàn Tri không phải ở sự nỗ lực, không phải ở sự cố gắng, không phải ở sự
chiến đấu với phiền não; nhưng sự sai trái ấy chính là ở việc buộc ngưng lại vật
thực. Chính đường lối thực hành ấy luôn luôn được sẵn sàng.
Tâu đại vương, hoặc là
giống như người nam quấn vào tấm vải choàng bị lấm lem, người ấy không cho giặt
sạch nó; sự sai trái ấy không phải là của nước; nước luôn luôn được sẵn sàng. Sự
sai trái ấy là của chính người ấy. Tâu đại vương, tương tợ y như thế sự sai
trái khiến đức Như Lai, vào thời điểm ấy, đã không đạt được Trí Toàn Tri không
phải ở sự nỗ lực, không phải ở sự cố gắng, không phải ở sự chiến đấu với phiền
não; nhưng sự sai trái ấy chính là ở việc buộc ngưng lại vật thực. Chính đường
lối thực hành ấy luôn luôn được sẵn sàng. Vì thế, đức Như Lai chỉ dạy, khuyến
khích các đệ tử về chính đường lối thực hành ấy. Tâu đại vương, như vậy đường lối
thực hành ấy luôn luôn được sẵn sàng, không có tội lỗi.”
“Thưa ngài Nāgasena, tốt
lắm! Trẫm chấp nhận điều này đúng theo như vậy.”
Chủ Nhật, 17 tháng 11, 2013
Chùa Pháp
Luân
Buddhist
Culture Center
13913 S. Post
Oak Rd Houston TX 77045 Tel.
(713)433-4364 Fax (713)456-2606
Website: www.phapluan.net , email: phapluan@yahoo.com
Thơ Mời Đại Lễ Tăng Y Kathina
và Lễ Tiểu Tường Đại Lão Hoà Thượng
Thích Hộ Giác
Thấm thoát đã gần một năm kể từ ngày Hoà
Thượng Thích Hộ Giác ra đi. Chư tăng xa gần hiệp ý tổ chức giỗ đầu của Ngài
cùng ngày với đại lễ Tăng Y Kathina tại chùa Pháp Luân. Năm vừa rồi chính Hoà
thượng thọ y Kathina 9 ngày trước khi Ngài viên tịch.
Lễ Tăng Y Kathina là đại lễ duy nhất
trong Phật giáo được Đức Phật chính thức ban hành từ khi Ngài còn trụ thế hợp theo truyền thống chư Phật quá khứ. Một y
casa tiêu biểu được dâng cúng đến đại chúng tỳ kheo Tăng. Nghi thức cúng y, thọ
y và giao y phải đúng theo luật nghi ghi trong Luật tạng. Đại lễ Tăng y là một
thể hiện tinh thần “thống lý đại chúng” của Tăng bảo. Năm nay đại lễ Tăng y tổ
chức tại chùa Pháp Luân vào ngày Chủ Nhật 17-11-2013. Chương trình khởi sự từ
10:30 sáng.
Lễ Tiểu Tường hay ngày giỗ đầu của Hoà
Thượng Hộ Giác cũng được tổ chức cùng ngày. Ngoài nghi thức cầu nguyện theo hai
truyền thống Nam và Bắc Tông còn có phần phát biểu của chư tôn đức và quí cư sĩ
về hành trạng và di sản tinh thần của một bậc cao tăng Phật giáo Việt Nam đương
đại. Lễ Tiểu Tường cũng chính thức đánh dấu chương trình hoạt động “Pháp Thí: Sự
Bố Thí Tối Thắng” kéo dài 12 tháng cho đến
lễ Đại Tường.
Khoá tu học 7 ngày từ 11 -11 đến 17 - 11
mang hai mục đích: Giới thiệu cách tu tập bản thân y cứ trên Kinh Pháp Cú và cũng
tạo phước cúng dường đến Hoà thượng Hộ Giác nhân giỗ đầu tiên của Ngài. Ngoài
ra trong thời gian nầy cũng có phần hướng dẫn xuất gia gieo duyên cho những giới
tử muốn làm quen với nếp sống thiền môn. Chương trình tập chú vào 5 trọng điểm:
tìm hiểu và ứng dụng Kinh Pháp Cú, tụng đọc kinh Phạn ngữ, làm quen với tăng tướng,
thực tập thiền tứ niệm xứ và sống trong tinh thần hoà hợp chúng.
Nguyện cầu Phật Pháp xương minh, pháp giới
hữu tình đồng ân triêm lợi lạc.
Trụ
Trì
Tỳ
Kheo Giác Đẳng
XÁ LỢI ĐỨC PHÓ TĂNG THỐNG
Thứ Hai, 11 tháng 11, 2013
CÓ THẦY NHƯ KHÔNG CÓ THẦY
1. “Thưa ngài Nāgasena, điều này cũng
đã được đức Thế Tôn nói đến:
‘Không có ai là thầy của ta, người
tương đương với ta không tìm thấy. Ở thế gian luôn cả cõi trời, không có ai là
đối thủ của ta.’
Và thêm nữa, Ngài đã nói rằng: ‘Này
các tỳ khưu, như vậy Āḷāra Kālāma, trong khi đang là thầy của
Ta, đã đặt Ta, đang là người đệ tử, ngang hàng với mình, và đã tôn vinh Ta với
sự tôn vinh tột bực.’
Thưa ngài Nāgasena, nếu điều đã được
nói bởi đức Như Lai là: ‘Không có ai là thầy của ta, người tương đương với
ta không tìm thấy,’ như thế thì lời nói rằng: ‘Này các tỳ khưu, như vậy
Āḷāra Kālāma, trong khi đang là thầy của Ta, đã đặt Ta, đang là người đệ
tử, ngang hàng với mình’ là sai trái. Nếu điều đã được nói bởi đức Như Lai
là: ‘Này các tỳ khưu, như vậy Āḷāra Kālāma, trong khi đang là thầy của
Ta, đã đặt Ta, đang là người đệ tử, ngang hàng với mình,’ như thế thì lời
nói rằng: ‘Không có ai là thầy của ta, người tương đương với ta không tìm
thấy’ cũng là sai trái. Câu hỏi này cũng có cả hai khía cạnh, được dành cho
ngài. Nó nên được giải quyết bởi ngài.”
2. “Tâu đại vương, điều này cũng đã
được đức Thế Tôn nói đến:
‘Không có ai là thầy của ta, người
tương đương với ta không tìm thấy. Ở thế gian luôn cả cõi trời, không có ai là
đối thủ của ta.’
Và Ngài đã nói rằng: ‘Này các tỳ
khưu, như vậy Āḷāra Kālāma, trong khi đang là thầy của Ta, đã đặt Ta, đang là người đệ
tử, ngang hàng với mình, và đã tôn vinh Ta với sự tôn vinh tột bực.’ Tuy nhiên, lời nói
ấy đã được nói liên quan đến bản thân vị thầy của chính đức Bồ Tát lúc chưa là
bậc Chánh Đẳng Giác, trước khi giác ngộ.
Tâu đại vương, năm vị này là những
người thầy của đức Bồ Tát lúc chưa là bậc Chánh Đẳng Giác, trước khi giác ngộ.
Được chỉ dạy bởi những vị này, đức Bồ Tát đã trải qua ở nơi kia ở nơi nọ. Năm
vị nào?
Tâu đại vương, khi đức Bồ Tát ở giai đoạn
đã được sanh ra, các vị ấy là tám vị Bà-la-môn đã xét đoán các tướng tốt, tức
là các vị Rāma, Dhaja, Lakkhaṇa, Mantī, Yañña, Suyāma, Subhoja, Sudatta. Các vị
ấy đã tuyên bố về điềm lành của đức Bồ Tát và đã thực hiện công việc bảo hộ;
các vị ấy là những vị thầy đầu tiên.
Tâu đại vương, còn có vị khác nữa là vị
Bà-la-môn tên Sabbamitta, được sanh ra ở nơi quý phái, cao thượng, có dòng dõi,
biết về cú pháp, về văn phạm, có sáu chi phần (của kinh Vệ Đà). Vào lúc bấy
giờ, người cha của đức Bồ Tát, đức vua Suddhodana, sau khi rước về đã rưới nước
với chiếc bình vàng, rồi đã trao cho (nói rằng): ‘Hãy cho đứa bé trai này học
tập;’ đây là vị thầy thứ nhì.
Tâu đại vương, còn có vị khác nữa là vị
Thiên nhân đã khiến cho đức Bồ Tát chấn động tâm. Sau khi lắng nghe lời nói của
vị ấy, đức Bồ Tát đã bị chấn động, kinh hoàng, rồi vào chính thời khắc ấy đã ra
đi xuất ly và đã xuất gia; đây là vị thầy thứ ba.
Tâu đại vương, còn có vị khác nữa là Āḷāra Kālāma; đây là vị
thầy thứ tư.
Tâu đại vương, còn có vị khác nữa là
Uddaka Rāmaputta; đây là vị thầy thứ năm.
Tâu đại vương, đây là năm vị thầy của
đức Bồ Tát lúc chưa là bậc Chánh Đẳng Giác, trước khi giác ngộ. Tuy nhiên, các
vị này là những người thầy về pháp thế gian. Tâu đại vương, trái lại trong việc
thấu triệt trí Toàn Tri về các pháp xuất thế gian này, thì không có vị hướng
dẫn nào trội hơn đức Như Lai. Tâu đại vương, đức Như Lai là đấng Tự Chủ, bậc
không có thầy.
Bởi lý do ấy, đức Như Lai đã nói rằng:
‘Không có ai là thầy của ta, người
tương đương với ta không tìm thấy. Ở thế gian luôn cả cõi trời, không có ai là
đối thủ của ta.’”
“Thưa ngài Nāgasena, tốt lắm! Trẫm chấp
nhận điều này đúng theo như vậy.”
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)