Thứ Năm, 31 tháng 10, 2013
PHẬT HÀI LÒNG VỚI PHÁP
1.
“Thưa ngài Nāgasena, ngài nói rằng: ‘Đức Như Lai là đấng Toàn Tri.’ Và
thêm nữa, ngài nói rằng: ‘Khi hội chúng tỳ khưu đứng đầu là Sāriputta và
Moggallāna bị đức Như Lai giải tán, các vị dòng Sakya ở tại Cātumā và
Phạm Thiên Sahampati đã nhắc đến ví dụ về hạt giống và ví dụ về con bê
nhỏ khiến cho đức Thế Tôn tin tưởng, tha thứ, và đã tỏ vẻ hài lòng.’
Thưa
ngài Nāgasena, phải chăng đức Như Lai đã không biết đến các ví dụ ấy,
và nhờ vào các ví dụ ấy mà đức Như Lai đã được thích thú, tha thứ, an
tịnh, và đã tỏ vẻ hài lòng? Thưa ngài Nāgasena, nếu đức Như Lai đã không
biết đến các ví dụ ấy, như thế thì đức Phật không là đấng Toàn Tri. Nếu
biết, như thế thì Ngài đã ép buộc dời đi, đã giải tán, không có ý định
tìm hiểu, như thế thì lòng thương xót không hiện hữu ở Ngài. Câu hỏi này
cũng có cả hai khía cạnh, được dành cho ngài. Nó nên được giải quyết
bởi ngài.”
2.
“Tâu đại vương, đức Như Lai là đấng Toàn Tri. Và nhờ vào các ví dụ ấy
mà đức Thế Tôn đã tin tưởng, thích thú, tha thứ, an tịnh, và đã tỏ vẻ
hài lòng. Tâu đại vương, đức Như Lai là đấng Pháp Chủ. Nhờ vào các ví dụ
đã được chính đức Như Lai công bố ấy mà các vị đã làm cho đức Như Lai
được vừa ý, vui vẻ, tin tưởng. Và tin tưởng vào các vị ấy, đức Như Lai
đã nói lời tùy hỷ rằng: ‘Tốt lắm!’
Tâu
đại vương, hoặc là giống như người đàn bà nhờ vào tài sản của chính
mình dành cho người chồng mà làm cho chồng được vừa ý, vui vẻ, tin
tưởng. Và người chồng nói với cô ấy lời tùy hỷ rằng: ‘Tốt lắm!’ Tâu đại
vương, tương tợ y như thế nhờ vào các ví dụ đã được chính đức Như Lai
công bố ấy mà các vị dòng Sakya ở tại Cātumā và Phạm Thiên Sahampati đã
làm cho đức Như Lai được vừa ý, vui vẻ, tin tưởng. Và tin tưởng vào các
vị ấy, đức Như Lai đã nói lời tùy hỷ rằng: ‘Tốt lắm!’
3.
Tâu đại vương, hoặc là giống như người thợ cạo, trong lúc trang điểm
cái đầu của đức vua, nhờ vào cái lược vàng của chính mình dành cho đức
vua mà làm cho đức vua được vừa ý, vui vẻ, tin tưởng. Và tin tưởng vào
người ấy, đức vua nói lời tùy hỷ rằng: ‘Tốt lắm!’ rồi ban thưởng theo
như ước muốn. Tâu đại vương, tương tợ y như thế nhờ vào các ví dụ đã
được chính đức Như Lai công bố ấy mà các vị dòng Sakya ở tại Cātumā và
Phạm Thiên Sahampati đã làm cho đức Như Lai được vừa ý, vui vẻ, tin
tưởng. Và tin tưởng vào các vị ấy, đức Như Lai đã nói lời tùy hỷ rằng:
‘Tốt lắm!’
Tâu
đại vương, hoặc là giống như người đệ tử sau khi nhận lấy đồ ăn khất
thực đã được mang lại cho thầy tế độ, trong khi dâng lên cho thầy tế độ
mà làm cho thầy tế độ được vừa ý, vui vẻ, tin tưởng. Và tin tưởng vào
người ấy, thầy tế độ nói lời tùy hỷ rằng: ‘Tốt lắm!’ Tâu đại vương,
tương tợ y như thế nhờ vào các ví dụ đã được chính đức Như Lai công bố
ấy mà các vị dòng Sakya ở tại Cātumā và Phạm Thiên Sahampati đã làm cho
đức Như Lai được vừa ý, vui vẻ, tin tưởng. Và tin tưởng vào các vị ấy,
đức Như Lai sau khi nói lời tùy hỷ rằng: ‘Tốt lắm!’ rồi đã thuyết giảng
Giáo Pháp đưa đến sự hoàn toàn giải thoát mọi khổ đau.”
“Thưa ngài Nāgasena, tốt lắm! Trẫm chấp nhận điều này đúng theo như vậy.”
Thứ Tư, 30 tháng 10, 2013
TRÁNH MẶT KHÔNG HẲN VÌ SỢ HÃI
1. “Thưa
ngài Nāgasena, điều này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến: ‘Các vị A-la-hán có
sự sợ hãi và run rẩy đã được xa lìa.’ Và thêm nữa ở thành Rājagaha năm trăm bậc
Lậu Tận, sau khi nhìn thấy con voi Dhanapālaka đang lao đến gần đức Thế Tôn, đã
rời bỏ đấng Chiến Thắng cao quý và đã tản mác khắp các phương ngoại trừ một vị
là trưởng lão Ānanda. Thưa ngài Nāgasena, phải chăng các vị A-la-hán ấy đã tản
mác vì sợ hãi? Hay là đã tản mác với ước muốn được chứng kiến thần thông không
thể đo lường, vĩ đại, không thể sánh bằng của đức Như Lai?
Thưa ngài
Nāgasena, nếu điều đã được nói bởi đức Thế Tôn là: ‘Các vị A-la-hán có sự sợ
hãi và run rẩy đã được xa lìa,’ như thế thì lời nói rằng: ‘Ở thành Rājagaha năm
trăm bậc Lậu Tận, sau khi nhìn thấy con voi Dhanapālaka đang lao đến gần đức
Thế Tôn, đã rời bỏ đấng Chiến Thắng cao quý và đã tản mác khắp các phương ngoại
trừ một vị là trưởng lão Ānanda’ là sai trái. Nếu ở thành Rājagaha năm trăm bậc
Lậu Tận, sau khi nhìn thấy con voi Dhanapālaka đang lao đến gần đức Thế Tôn, đã
rời bỏ đấng Chiến Thắng cao quý và đã tản mác khắp các phương ngoại trừ một vị
là trưởng lão Ānanda, như thế thì lời nói rằng: ‘Các vị A-la-hán có sự sợ hãi
và run rẩy đã được xa lìa’ cũng là sai trái. Câu hỏi này cũng có cả hai khía
cạnh, được dành cho ngài. Nó nên được giải quyết bởi ngài.”
2. “Tâu
đại vương, điều này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến: ‘Các vị A-la-hán có sự sợ
hãi và run rẩy đã được xa lìa.’ Và ở thành Rājagaha năm trăm bậc Lậu Tận, sau
khi nhìn thấy con voi Dhanapālaka đang lao đến gần đức Thế Tôn, đã rời bỏ đấng
Chiến Thắng cao quý và đã tản mác khắp các phương ngoại trừ một vị là trưởng
lão Ānanda. Tuy nhiên, điều ấy không do sự sợ hãi, cũng không phải do sự mong
muốn để khiến cho đức Thế Tôn bị ngã gục.
Tâu đại
vương, do nhân nào các vị A-la-hán có thể bị sợ hãi hoặc có thể bị run rẩy,
nhân ấy đã được trừ tuyệt ở các vị A-la-hán; vì thế các vị A-la-hán có sự sợ
hãi và run rẩy đã được xa lìa. Tâu đại vương, vậy thì đại địa cầu có bị sợ hãi
trong khi (bị) đào xới, trong khi (bị) đổ vỡ, trong khi nâng đỡ biển cả, núi
non, và đỉnh núi?”
“Thưa
ngài, không có.”
“Tâu đại
vương, vì lý do gì?”
“Thưa
ngài, nhân nào khiến cho đại địa cầu có thể bị sợ hãi hay bị run rẩy thì nhân
ấy không có ở đại địa cầu.”
“Tâu đại
vương, tương tợ y như thế nhân nào khiến cho các vị A-la-hán có thể bị sợ hãi
hay bị run rẩy thì nhân ấy không có ở các vị A-la-hán. Tâu đại vương, vậy thì
đỉnh núi có bị sợ hãi trong khi (bị) nứt nẻ, trong khi (bị) đổ vỡ, trong khi
sụp xuống, hoặc trong khi (bị) đốt nóng bởi ngọn lửa?”
Thứ Ba, 29 tháng 10, 2013
TRẢ ĐÚNG GIÁ THÌ CÁI GÌ CŨNG ĐƯỢC
1. “Thưa
ngài Nāgasena, điều này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến:
‘Nếu có
thể đạt được lúc thuận tiện hoặc chỗ kín đáo hoặc có được kẻ mời mọc là người
vừa ý, tất cả các nữ nhân cũng có thể làm điều xấu xa, với cả người què quặt
khi không đạt được kẻ nào khác.’
Và thêm
nữa được thuật lại rằng: ‘Người đàn bà tên Amarā, vợ của Mahosadha, đã ở lại
trong thôn khi chồng đi xa. Ngồi xuống trong phòng kín, cô quạnh, nàng đã xem
chồng như là vị vua và đã không làm điều xấu xa trong khi được mời mọc với một
ngàn đồng.’
Thưa ngài
Nāgasena, nếu điều đã được nói bởi đức Thế Tôn là:
‘Nếu có
thể đạt được lúc thuận tiện hoặc chỗ kín đáo hoặc có được kẻ mời mọc là người
vừa ý, tất cả các nữ nhân cũng có thể làm điều xấu xa, với cả người què quặt
khi không đạt được kẻ nào khác,’ như thế thì lời nói rằng: ‘Người đàn bà tên
Amarā, vợ của Mahosadha, đã ở lại trong thôn khi chồng đi xa. Ngồi xuống trong
phòng kín, cô quạnh, nàng đã xem chồng như là vị vua và đã không làm điều xấu xa
trong khi được mời mọc với một ngàn đồng’ là sai trái.
Nếu người
đàn bà tên Amarā, vợ của Mahosadha, đã ở lại trong thôn khi chồng đi xa. Ngồi
xuống trong phòng kín, cô quạnh, nàng đã xem chồng như là vị vua và đã không
làm điều xấu xa trong khi được mời mọc với một ngàn đồng, như thế thì lời nói
rằng: ‘Nếu có thể đạt được lúc thuận tiện hoặc chỗ kín đáo hoặc có được kẻ mời
mọc là người vừa ý, tất cả các nữ nhân cũng có thể làm điều xấu xa, với cả
người què quặt khi không đạt được kẻ nào khác’ cũng là sai trái.
Câu hỏi
này cũng có cả hai khía cạnh, được dành cho ngài. Nó nên được giải quyết bởi
ngài.”
2. “Tâu
đại vương, điều này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến:
‘Nếu có
thể đạt được lúc thuận tiện hoặc chỗ kín đáo hoặc có được kẻ mời mọc là người
vừa ý, tất cả các nữ nhân cũng có thể làm điều xấu xa, với cả người què quặt
khi không đạt được kẻ nào khác.’
Và được
thuật lại rằng: ‘Người đàn bà tên Amarā, vợ của Mahosadha, đã ở lại trong thôn
khi chồng đi xa. Ngồi xuống trong phòng kín, cô quạnh, nàng đã xem chồng như là
vị vua và đã không làm điều xấu xa trong khi được mời mọc với một ngàn đồng.’
Tâu đại
vương, người đàn bà ấy trong khi nhận được một ngàn đồng có thể làm hành động
xấu xa với người nam vừa ý, (hay) nàng ấy có thể không làm nếu có thể đạt được
lúc thuận tiện hoặc chỗ kín đáo hoặc có được kẻ mời mọc là người vừa ý?
Tâu đại
vương, người đàn bà Amarā ấy, trong khi xem xét, đã không nhìn thấy lúc thuận
tiện hoặc chỗ kín đáo hoặc có được kẻ mời mọc là người vừa ý. Nàng đã không
nhìn thấy do sợ hãi về sự chê trách ở đời này, đã không nhìn thấy lúc thuận
tiện do sợ hãi về địa ngục ở đời sau, đã không nhìn thấy lúc thuận tiện (vì
nghĩ rằng): ‘Việc xấu xa có quả thành tựu đắng cay,’ đã không nhìn thấy lúc
thuận tiện vì không có ý muốn buông bỏ người yêu, đã không nhìn thấy lúc thuận
tiện do sự kính trọng đối với chồng, đã không nhìn thấy lúc thuận tiện trong
khi tôn kính Giáo Pháp, đã không nhìn thấy lúc thuận tiện trong khi đang chê
trách việc không thánh thiện, đã không nhìn thấy lúc thuận tiện vì không có ý
muốn đổ bể việc làm. Nàng đã không nhìn thấy vì nhiều lý do có hình thức như
thế.
Còn về
chỗ kín đáo, sau khi suy xét ở thế gian, nàng ấy trong khi không nhìn thấy nên
đã không làm điều xấu xa. Nếu nàng ấy có thể đạt được chỗ kín đáo đối với loài
người, thì có thể không đạt được chỗ kín đáo đối với phi nhân. Nếu có thể đạt
được chỗ kín đáo đối với phi nhân, thì có thể không đạt được chỗ kín đáo đối
với những vị xuất gia biết được tâm của người khác. Nếu có thể đạt được chỗ kín
đáo đối với những vị xuất gia biết được tâm của người khác, thì có thể không
đạt được chỗ kín đáo đối với chư Thiên biết được tâm của người khác. Nếu có thể
đạt được chỗ kín đáo đối với chư Thiên biết được tâm của người khác, thì có thể
không đạt được chỗ kín đáo đối với các điều xấu xa bởi chính mình. Nếu có thể
đạt được chỗ kín đáo đối với các điều xấu xa bởi chính mình, thì có thể không
đạt được chỗ kín đáo đối với điều phi pháp. Sau khi không đạt được chỗ kín đáo
vì nhiều lý do có hình thức như thế, nàng đã không làm điều xấu xa.
Còn về kẻ
mời mọc, sau khi xem xét ở thế gian, trong khi không đạt được người vừa ý, nàng
ấy đã không làm điều xấu xa.
3. Tâu
đại vương, bậc sáng trí Mahosadha được hội đủ với hai mươi tám yếu tố. Được hội
đủ với hai mươi tám yếu tố nào? Tâu đại vương, Mahosadha là bậc anh hùng, có
tàm, có quý, có tùy tùng, đạt được bạn bè, nhẫn nại, có giới hạnh, nói lời chân
thật, đạt được sự thanh tịnh, không giận dữ, không ngã mạn thái quá, không ganh
tỵ, có sự tinh tấn, năng nổ (làm phước thiện), hào phóng, rộng rãi, nói năng
khéo léo, cư xử khiêm tốn, tế nhị, không gian trá, không xảo quyệt, đạt được sự
thông minh vượt bậc, khôn khéo, đạt được kiến thức, có sự tầm cầu lợi ích cho
những người nương tựa, được mọi người mong mỏi, có tài sản, có danh vọng. Tâu
đại vương, bậc sáng trí Mahosadha được hội đủ với hai mươi tám yếu tố này. Nàng
ấy sau khi không đạt được kẻ mời mọc nào khác vừa ý, nàng ấy đã không làm điều
xấu xa.”
“Thưa
ngài Nāgasena, tốt lắm! Trẫm chấp nhận điều này đúng theo như vậy.”
Thứ Hai, 28 tháng 10, 2013
NGHIỆP TRẮNG LẪN ĐEN KẾT QUẢ ĐEN VÀ TRẮNG
1. “Thưa
ngài Nāgasena, quả thành tựu của người làm việc thiện cũng như của người làm
việc bất thiện là tương đương nhau? Hay là có sự khác biệt nào đó?”
“Tâu đại
vương, có sự khác biệt giữa thiện và bất thiện. Tâu đại vương, thiện có an lạc
là quả thành tựu, đưa đến cõi trời. Bất thiện có khổ đau là quả thành tựu, đưa
đến địa ngục.”
2. “Thưa
ngài Nāgasena, ngài nói rằng: ‘Devadatta thuần đen, hội đủ các pháp thuần đen.
Đức Bồ Tát thuần trắng, hội đủ các pháp thuần trắng.’ Thêm nữa, Devadatta với
đức Bồ Tát trong từng kiếp một là tương đương nhau về danh vọng và đồ chúng,
hoặc đôi lúc trội hơn. Vào lúc Devadatta đã là con trai viên quan tế tự của đức
vua Brahmadatta ở thành Bārāṇasī, khi
ấy đức Bồ Tát đã là người thầy pháp có dòng dõi hạ tiện đáng thương, sau khi
đọc thầm thần chú đã làm trổ ra các trái xoài sái mùa.[4] Khi ở vào trường hợp
ấy, đức Bồ Tát là thấp kém về dòng dõi và thấp kém về danh vọng so với
Devadatta.
Còn có
điều khác nữa, vào lúc Devadatta đã là vị vua, chủ tể của đại địa cầu, có đầy
đủ tất cả các dục, khi ấy đức Bồ Tát đã là vật sử dụng của nhà vua, là con long
tượng có đủ mọi tướng tốt. Trong khi bị khó chịu với cử chỉ và điệu bộ duyên
dáng của con voi, đức vua trong khi muốn giết nên đã nói với người thầy dạy voi
như vầy: ‘Này ông thầy, con long tượng này không được ngươi dạy dỗ, ngươi hãy
cho nó thực hiện việc tên là ‘đi trên không trung’ đi.’[5] Luôn cả trường hợp
ấy, đức Bồ Tát là loài thú đáng thương, thấp kém về dòng dõi so với Devadatta.
Còn có
điều khác nữa, vào lúc Devadatta đã là loài người, kẻ bị phá sản, ở trong rừng,
khi ấy đức Bồ Tát đã là con khỉ tên Mahāpaṭhavī.[6] Cho đến lần này thì sự khác biệt giữa người và thú được nhận
thấy. Luôn cả trường hợp ấy, đức Bồ Tát là thấp kém về dòng dõi so với
Devadatta.
3. Còn có
điều khác nữa, vào lúc Devadatta đã là loài người, là kẻ thợ săn mạnh mẽ tên Soṇuttara, có sức mạnh hơn cả sức mạnh của con voi,
khi ấy đức Bồ Tát đã là con voi chúa tên Chaddanta. Khi ấy, gã thợ săn ấy đã
giết chết con long tượng ấy.[7] Luôn cả trường hợp ấy, chính Devadatta là trội
hơn.
Còn có
điều khác nữa, vào lúc Devadatta đã là loài người, là kẻ sống ở rừng, sống
không có chỗ ở, khi ấy đức Bồ Tát đã là loài chim, là con chim đa đa có sự học
tập về chú thuật. Khi ấy, kẻ sống ở rừng ấy cũng đã giết chết con chim ấy. Luôn
cả trường hợp ấy, chính Devadatta là trội hơn về dòng dõi.
Còn có
điều khác nữa, vào lúc Devadatta đã là vua xứ Kāsi tên Kalābu, khi ấy đức Bồ
Tát đã là vị đạo sĩ khổ hạnh giảng về sự kham nhẫn. Khi ấy, vị vua ấy, bị nổi
giận, đã cho chặt đứt các bàn tay và bàn chân của vị đạo sĩ khổ hạnh ấy như là
chém các chồi măng non. Luôn cả trường hợp ấy, chính Devadatta là trội hơn về
dòng dõi và danh vọng.
Còn có
điều khác nữa, vào lúc Devadatta đã là loài người, là kẻ sống ở rừng, khi ấy
đức Bồ Tát đã là con khỉ chúa tên Nandiya. Cũng vào khi ấy, kẻ sống ở rừng ấy
đã giết chết con khỉ chúa ấy cùng với khỉ mẹ và khỉ em. Luôn cả trường hợp ấy,
chính Devadatta là trội hơn về dòng dõi.
Còn có
điều khác nữa, vào lúc Devadatta đã là loài người, là đạo sĩ lõa thể tên
Kārambhiya, khi ấy đức Bồ Tát đã là con rồng chúa tên Paṇḍaraka. Luôn cả trường hợp ấy, chính Devadatta là
trội hơn về dòng dõi.
4. Còn có
điều khác nữa, vào lúc Devadatta đã là loài người, là đạo sĩ bện tóc ở trong
rừng. khi ấy đức Bồ Tát đã là con heo rừng lớn tên Tacchaka. Luôn cả trường hợp
ấy, chính Devadatta là trội hơn về dòng dõi.
Còn có
điều khác nữa, vào lúc Devadatta đã là đức vua tên Suraparicara của xứ Cetī, có
sự di chuyển trong không trung, ở bầu trời, phía bên trên của đám người, khi ấy
đức Bồ Tát đã là vị Bà-la-môn tên Kapila.[8] Luôn cả trường hợp ấy, chính
Devadatta là trội hơn về dòng dõi và danh vọng.
Còn có
điều khác nữa, vào lúc Devadatta đã là loài người, có tên là Sāma, khi ấy đức
Bồ Tát đã là con nai chúa có tên Ruru. Luôn cả trường hợp ấy, chính Devadatta
là trội hơn về dòng dõi.
Còn có
điều khác nữa, vào lúc Devadatta đã là loài người, là thợ săn sống ở rừng, khi
ấy đức Bồ Tát đã là con long tượng. Kẻ thợ săn ấy đã bảy lần cắt lấy ngà của
con long tượng ấy rồi mang đi.[9] Luôn cả trường hợp ấy, chính Devadatta là
trội hơn về nguồn gốc xuất thân.
Còn có
điều khác nữa, vào lúc Devadatta đã là loài chó rừng, có tư cách của dòng dõi
Sát-đế-lỵ, nó đã làm cho hết thảy tất cả những vị vua của các xứ sở ở Jambudīpa
trở thành chư hầu, khi ấy đức Bồ Tát đã là bậc sáng trí tên Vidhura.[10] Luôn
cả trường hợp ấy, chính Devadatta là trội hơn về danh vọng.
5. Còn có
điều khác nữa, vào lúc Devadatta đã là con long tượng, nó đã giết những chim
con của con chim cút, khi ấy đức Bồ Tát cũng đã là con long tượng, chúa của một
bầy.[11] Cho đến trường hợp ấy, cả hai đã là tương đương nhau.
Còn có
điều khác nữa, vào lúc Devadatta đã là loài Dạ-xoa tên Adhamma, khi ấy đức Bồ
Tát cũng đã là loài Dạ-xoa tên Dhamma.[12] Luôn cả trường hợp ấy, cả hai cũng
đã là tương đương nhau.
Còn có
điều khác nữa, vào lúc Devadatta đã là thuyền trưởng, là người chỉ huy của năm
trăm gia đình, khi ấy đức Bồ Tát cũng đã là thuyền trưởng, là người chỉ huy của
năm trăm gia đình.[13] Luôn cả trường hợp ấy, cả hai cũng đã là tương đương
nhau.
Còn có
điều khác nữa, vào lúc Devadatta đã là người chỉ đạo đoàn xe, là người chỉ huy
năm trăm cỗ xe, khi ấy đức Bồ Tát cũng đã là người chỉ đạo đoàn xe, là người
chỉ huy năm trăm cỗ xe.[14] Luôn cả trường hợp ấy, cả hai cũng đã là tương
đương nhau.
Còn có
điều khác nữa, vào lúc Devadatta đã là con nai chúa tên Sākha, khi ấy đức Bồ
Tát cũng đã là con nai chúa tên Nigrodha.[15] Luôn cả trường hợp ấy, cả hai
cũng đã là tương đương nhau.
Còn có
điều khác nữa, vào lúc Devadatta đã là vị tướng quân tên Sākha, khi ấy đức Bồ
Tát đã là vị vua tên Nigrodha.[16] Luôn cả trường hợp ấy, cả hai cũng đã là
tương đương nhau.
6. Còn có
điều khác nữa, vào lúc Devadatta đã là vị Bà-la-môn tên Khaṇḍahāla, khi ấy đức Bồ Tát đã là vị vương tử tên
Canda.[17] Khi ấy, chính Khaṇḍahāla này
là trội hơn.
Còn có
điều khác nữa, vào lúc Devadatta đã là vị vua tên Brahmadatta, khi ấy đức Bồ
Tát đã là vị hoàng tử tên Mahāpaduma, con trai của vị vua ấy. Khi ấy, vị vua ấy
đã ra lệnh ném người con trai của mình xuống Corapapāta (khe núi kẻ cướp).[18]
‘Bởi vì ở mọi nơi, chính người cha là đặc biệt, là trội hơn những người con
trai,’ như thế luôn cả trường hợp ấy, chính Devadatta là trội hơn.
Còn có
điều khác nữa, vào lúc Devadatta đã là vị vua tên Mahāpatāpa, khi ấy đức Bồ Tát
đã là vị hoàng tử tên Dhammapāla, con trai của vị vua ấy. Khi ấy, vị vua ấy đã
ra lệnh chặt các bàn tay bàn chân và đầu của người con trai của mình.[19] Luôn
cả trường hợp ấy, chính Devadatta là cao hơn, trội hơn.
Vào lúc
này hôm nay, cả hai cũng đã sanh vào gia tộc Sakya. Đức Bồ Tát đã trở thành đức
Phật, đấng Toàn Tri, vị Lãnh Đạo Thế Gian, còn Devadatta sau khi xuất gia trong
Giáo Pháp của vị Chúa của chư Thiên ấy, đã làm sanh khởi thần thông, và đã thể
hiện ước muốn làm Phật.
Thưa ngài
Nāgasena, phải chăng điều đã được Trẫm nói, mọi điều ấy đều là như thế ấy, hay
là như thế khác?”
7. “Tâu
đại vương, tất cả mọi lý do theo nhiều loại đã được ngài dẫn giải ấy đều y như
thế ấy, không phải như thế khác.”
“Thưa
ngài Nāgasena, nếu đen cũng như trắng là có cảnh giới tái sanh tương đương
nhau, như thế thì phải chăng thiện cũng như bất thiện có quả thành tựu tương
đương nhau?”
“Tâu đại
vương, không phải thiện cũng như bất thiện là có quả thành tựu tương đương
nhau. Tâu đại vương, không hẳn là Devadatta đã chống đối lại tất cả mọi người,
đã chống đối lại chính đức Bồ Tát. Mà sự chống đối của vị ấy đối với đức Bồ Tát
được chín muồi và trổ quả ngay trong mỗi một kiếp sống ấy.
Tâu đại
vương, ngay cả Devadatta khi được đặt vào ở vị thế quyền lực cũng ban bố sự bảo
vệ đến các xứ sở, cũng cho xây dựng cầu cống, hội trường, phước xá, cũng dâng
cúng vật thí theo như mong mỏi đến các Sa-môn và Bà-la-môn, đến những người
khốn khổ và nghèo khó có sự bảo hộ hoặc không có sự bảo hộ. Do quả thành tựu
của điều ấy, Devadatta đạt được các sự thành tựu trong từng kiếp sống một. Tâu
đại vương, đối với người nào mà có thể nói về điều này: ‘Sẽ hưởng thụ sự thành
tựu mà không cần bố thí, rèn luyện, thu thúc, thực hành trai giới?’
Tâu đại
vương, hơn nữa về điều mà đại vương nói như vầy: ‘Devadatta và đức Bồ Tát tuần
tự luân chuyển chung với nhau,’ việc gặp gỡ ấy đã xảy ra không phải với sự trải
qua của trăm kiếp sống, không phải với sự trải qua của ngàn kiếp sống, không
phải với sự trải qua của trăm ngàn kiếp sống, mà đôi lúc đôi khi đã xảy ra với
sự trải qua của nhiều ngày đêm. Tâu đại vương, hơn nữa về ví dụ về con rùa mù
đã được đức Thế Tôn chỉ ra về (sự khó khăn trong) việc thành tựu bản thể nhân
loại.[20] Tâu đại vương, hãy ghi nhận việc gặp gỡ của hai người này là (khó
khăn) tương tợ như thế.
Tâu đại
vương, không phải đã xảy ra sự gặp gỡ của đức Bồ Tát với riêng Devadatta, tâu
đại vương, trưởng lão Sāriputta trong nhiều trăm ngàn kiếp sống cũng đã là cha,
đã là ông nội, đã là chú, đã là anh (em) trai, đã là con trai, đã là chị (em)
gái, đã là bạn bè của đức Bồ Tát. Tâu đại vương, đức Bồ Tát trong nhiều trăm
ngàn kiếp sống cũng đã là cha, đã là ông nội, đã là chú, đã là anh (em) trai,
đã là con trai, đã là chị (em) gái, đã là bạn bè của trưởng lão Sāriputta. Tâu
đại vương, thậm chí tất cả (những ai) đã được gộp vào thành phần chúng sanh, bị
xuôi theo dòng chảy luân hồi, bị cuốn trôi bởi dòng chảy luân hồi, đều gặp gỡ
với những người ghét lẫn người thương.
Tâu đại
vương, giống như nước, trong khi bị cuốn trôi theo dòng thì gặp gỡ với vật
sạch, dơ, đẹp, xấu, tâu đại vương, tương tợ y như thế thậm chí tất cả (những
ai) đã được gộp vào thành phần chúng sanh, bị xuôi theo dòng chảy luân hồi, bị
cuốn trôi bởi dòng chảy luân hồi, đều gặp gỡ với những người ghét lẫn người
thương.
Tâu đại
vương, Devadatta trong khi là Dạ-xoa với bản thân theo phi pháp, sau khi khuyến
khích những người khác theo phi pháp đã bị nung nấu ở đại địa ngục trong năm
trăm bảy mươi sáu triệu năm.[21] Tâu đại vương, còn đức Bồ Tát trong khi là
Dạ-xoa với bản thân theo đúng pháp, sau khi khuyến khích những người khác theo
đúng pháp đã vui sướng ở cõi trời, có đầy đủ tất cả các dục, trong năm trăm bảy
mươi sáu triệu năm.
Tâu đại
vương, hơn nữa Devadatta trong kiếp sống này sau khi công kích đức Phật là bậc
không nên công kích, sau khi chia rẽ Hội Chúng hòa hợp, đã đi vào trái đất. Đức
Như Lai, sau khi được giác ngộ tất cả các pháp, rồi đã viên tịch Niết Bàn khi
có sự tiêu diệt của các mầm tái sanh.”
“Thưa
ngài Nāgasena, tốt lắm! Trẫm chấp nhận điều này đúng theo như vậy.”
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)