Thứ Hai, 30 tháng 9, 2013
ĐỨC PHẬT ĐÃ GIẢI THOÁT SAO CÒN PHẢI NHẬP THIỀN?
1.
“Thưa ngài Nāgasena, ngài đã nói rằng: ‘Bất cứ việc gì cần phải làm đối với đức
Như Lai, tất cả các việc ấy đã được hoàn tất ở ngay tại gốc cây Bồ Đề. Đối với
đức Như Lai, không có việc gì cần phải làm thêm nữa, hoặc sự tích lũy thêm đối
với việc đã làm.’ Và ba tháng thiền tịnh này được ghi nhận. Thưa ngài Nāgasena,
nếu bất cứ việc gì cần phải làm đối với đức Như Lai, tất cả các việc ấy đã được
hoàn tất ở ngay tại gốc cây Bồ Đề. Đối với đức Như Lai, không có việc gì cần phải
làm thêm nữa, hoặc sự tích lũy thêm đối với việc đã làm, như thế thì lời nói
‘ba tháng thiền tịnh’ là sai trái. Nếu có ba tháng thiền tịnh, như thế thì lời
nói ‘bất cứ việc gì cần phải làm đối với đức Như Lai, tất cả các việc ấy đã được
hoàn tất ở ngay tại gốc cây Bồ Đề’ cũng là sai trái. Không có thiền tịnh đối với
người có việc cần phải làm đã được làm xong, thiền tịnh là chỉ riêng đối với
người có việc cần phải làm. Giống như chỉ riêng đối với người bị bệnh thì có việc
cần phải làm với thuốc men, còn đối với người không bị bệnh thì có việc gì với
thuốc men? Chỉ riêng đối với người đói thì có việc cần phải làm với thức ăn,
còn đối với người không đói thì có việc gì với thức ăn? Thưa ngài Nāgasena,
tương tợ y như thế không có thiền tịnh đối với người có việc cần phải làm đã được
làm xong, thiền tịnh là chỉ riêng đối với người có việc cần phải làm. Câu hỏi
này cũng có cả hai khía cạnh. Nó được dành cho ngài, nên được giải quyết bởi
ngài.”
2.
“Tâu đại vương, bất cứ việc gì cần phải làm đối với đức Như Lai, tất cả các việc
ấy đã được hoàn tất ở ngay tại gốc cây Bồ Đề. Đối với đức Như Lai, không có việc
gì cần phải làm thêm nữa, hoặc sự tích lũy thêm đối với việc đã làm, và đức Như
Lai có thiền tịnh ba tháng. Tâu đại vương, thiền tịnh quả là có nhiều công đức.
Tất cả các đức Như Lai đều thiền tịnh rồi mới đạt đến bản thể Toàn Tri. Trong
khi nhớ lại đức tính đã được thực hiện tốt đẹp ấy, các Ngài tiến hành thiền tịnh.
Tâu đại vương, giống như người nam đã nhận được ân huệ, đã đạt được của cải nhờ
vào sự thân cận đức vua. Trong khi nhớ lại đức tính đã được thực hiện tốt đẹp ấy,
gã liên tục đi đến phục vụ đức vua. Tâu đại vương, tương tợ y như thế tất cả
các đức Như Lai đều thiền tịnh rồi mới đạt đến bản thể Toàn Tri. Trong khi nhớ
lại đức tính đã được thực hiện tốt đẹp ấy, các Ngài tiến hành thiền tịnh.
Tâu
đại vương, hoặc là giống như người nam bị nhiễm bệnh, khổ sở, có bệnh trầm trọng,
sau khi đến gặp người thầy thuốc thì thành tựu sự an vui. Trong khi nhớ lại đức
tính đã được thực hiện tốt đẹp ấy, gã thường xuyên đi đến gặp người thầy thuốc.
Tâu đại vương, tương tợ y như thế tất cả các đức Như Lai đều thiền tịnh rồi mới
đạt đến bản thể Toàn Tri. Trong khi nhớ lại đức tính đã được thực hiện tốt đẹp ấy,
các Ngài tiến hành thiền tịnh.
3.
Tâu đại vương, hơn nữa đây là hai mươi tám đức tính của thiền tịnh. Trong khi
thấy rõ những đức tính này, các đức Như Lai tiến hành thiền tịnh. Hai mươi tám
đức tính gì? Tâu đại vương, ở đây thiền tịnh hộ trì bản thân người đang thiền tịnh,
làm tăng trưởng tuổi thọ, ban cho sức mạnh, lấp lại tội lỗi, loại trừ điều tai
tiếng, đem lại danh tiếng, xua đi sự không hứng thú, cung cấp sự hứng thú, loại
trừ sự sợ hãi, làm sanh lên sự tự tin, loại trừ sự lười biếng, tạo ra sự tinh tấn,
loại trừ sự tham đắm, loại trừ sự sân hận, loại trừ sự si mê, tiêu diệt sự ngã
mạn, phá vỡ sự suy tư, làm cho tâm chuyên nhất, làm cho tâm được trong sáng,
sanh ra sự tươi vui, tạo sự kính trọng, làm cho đạt được sự lợi ích, tạo sự
cung kính, khiến cho thành tựu hỷ, tạo sự hân hoan, làm cho thấy được bản thể của
các sự tạo tác, diệt trừ sự nối liền với việc tái sanh, ban cho toàn bộ Sa-môn
hạnh. Tâu đại vương, đây là hai mươi tám đức tính của thiền tịnh. Trong khi thấy
rõ những đức tính này, các đức Như Lai tiến hành thiền tịnh.
Tâu
đại vương, hơn nữa với ý muốn tận hưởng sự an tịnh, an lạc, sự hứng thú trong
việc chứng đạt, các đức Như Lai tiến hành thiền tịnh với ý định dứt khoát. Tâu
đại vương, các đức Như Lai tiến hành thiền tịnh vì bốn lý do. Vì bốn lý do gì?
Tâu đại vương, các đức Như Lai tiến hành thiền tịnh vì tính chất an lạc của việc
cư trú, các đức Như Lai tiến hành thiền tịnh nhằm sự gia tăng đức hạnh của việc
không phạm lỗi lầm, các đức Như Lai tiến hành thiền tịnh vì đường lối trọn vẹn
của bậc Thánh, các đức Như Lai tiến hành thiền tịnh vì đã được tán dương, khen
ngợi, ca tụng của tất cả chư Phật. Tâu đại vương, các đức Như Lai tiến hành thiền
tịnh vì bốn lý do này. Tâu đại vương, như thế các đức Như Lai tiến hành thiền tịnh
không phải vì có việc gì cần phải làm, không phải vì sự tích lũy thêm đối với
việc đã làm. Quả vậy, các đức Như Lai tiến hành thiền tịnh vì thấy được tính chất
đặc biệt về đức tính (của thiền tịnh).”
“Thưa
ngài Nāgasena, tốt lắm! Trẫm chấp nhận điều này đúng theo như vậy.”
Chủ Nhật, 29 tháng 9, 2013
HỮU
DƯ Y NIẾT BÀN
1. “Thưa ngài Nāgasena, đức Thế Tôn đã đạt
đến bản thể Toàn Tri sau khi thiêu đốt tất cả pháp bất thiện, hay là đã đạt đến
bản thể Toàn Tri khi pháp bất thiện còn dư sót.”
“Tâu đại vương, đức Thế Tôn đã đạt đến bản thể Toàn Tri sau
khi thiêu đốt tất cả pháp bất thiện. Không có pháp bất thiện còn dư sót ở đức
Thế Tôn.”
“Thưa ngài, phải chăng các thọ khổ trước
đây đã khởi lên ở cơ thể của đức Như Lai?”
“Tâu đại vương, đúng vậy. Ở Rājagaha, bàn
chân của đức Thế Tôn đã bị cắt đứt bởi miểng đá, cơn bệnh xuất huyết đã phát
khởi, khi cơ thể bị tiết ra chất dơ Jīvaka đã cho sử dụng liều thuốc xổ, khi
cơn bệnh gió phát khởi vị trưởng lão thị giả đã tìm kiếm nước nóng.”
2. “Thưa ngài Nāgasena, nếu đức Như Lai đã
đạt đến bản thể Toàn Tri sau khi thiêu đốt tất cả pháp bất thiện, như thế thì
lời nói rằng: ‘Bàn chân của đức Thế Tôn đã bị cắt đứt bởi miểng đá, cơn bệnh
xuất huyết đã phát khởi’ là sai trái. Nếu bàn chân của đức Như Lai đã bị cắt
đứt bởi miểng đá, cơn bệnh xuất huyết đã phát khởi, như thế thì lời nói: ‘Đức
Như Lai đã đạt đến bản thể Toàn Tri sau khi thiêu đốt tất cả pháp bất thiện’
cũng là sai trái. Thưa ngài, không có cảm thọ tách rời khỏi nghiệp, tất cả cảm
thọ ấy có gốc rễ ở nghiệp, được cảm nhận chỉ do nghiệp. Câu hỏi này có cả hai
khía cạnh, được dành cho ngài. Nó nên được giải quyết bởi ngài.”
3. “Tâu đại vương, không hẳn tất cả cảm thọ
ấy có gốc rễ ở nghiệp. Tâu đại vương, các cảm thọ sanh lên do tám lý do, do các
lý do ấy chúng sanh phàm phu cảm nhận các thọ. Do tám lý do nào? Tâu đại vương,
một số cảm thọ sanh lên có nguồn sanh khởi là gió; tâu đại vương —(như trên)—
có nguồn sanh khởi là mật; tâu đại vương —(như trên)— có nguồn sanh khởi là
đàm; tâu đại vương —(như trên)— có liên quan đến sự tụ hội (của gió, mật, đàm);
tâu đại vương —(như trên)— do sự thay đổi của mùa tiết; tâu đại vương —(như
trên)— do sự sinh hoạt không đều đặn; tâu đại vương —(như trên)— có liên quan
đến việc ra sức; tâu đại vương một số cảm thọ sanh lên do quả thành tựu của
nghiệp. Tâu đại vương, do tám lý do này chúng sanh phàm phu cảm nhận các thọ. Ở
đây, những chúng sanh nào nói rằng: ‘Nghiệp đày đọa các chúng sanh,’ những
người ấy phủ nhận lý do. Lời nói ấy của những người ấy là sai trái.
4. “Thưa ngài
Nāgasena, việc có liên quan đến gió, việc có liên quan đến mật, việc có liên
quan đến đàm, việc có liên quan đến sự tụ hội (của gió, mật, đàm), việc do sự
thay đổi của mùa tiết, việc do sự sinh hoạt không đều đặn, việc có liên quan
đến việc ra sức, tất cả các việc ấy có nguồn sanh khởi cũng ở nghiệp, tất cả
các việc ấy tạo thành cũng do nghiệp.”
“Tâu đại vương, nếu tất cả các bệnh tật ấy
có nguồn sanh khởi chỉ là nghiệp, thì chúng không có các đặc điểm để phân loại.
Tâu đại vương, gió trong khi bị rối loạn thì bị rối loạn theo mười cách: do
lạnh, do nóng, do đói, do khát, do ăn quá độ, đo đứng, do tinh tấn, do chạy, do
việc ra sức, do quả thành tựu của nghiệp. Trong số đó, có chín cách sanh lên
không ở quá khứ, không ở vị lai, mà ở bản thể hiện tại. Vì thế, không nên nói
rằng: ‘Tất cả các thọ có sự tạo thành do nghiệp.’
Tâu đại vương, mật trong khi bị rối loạn
thì bị rối loạn theo ba cách: do lạnh, do nóng, do vật thực không đều. Tâu đại
vương, đàm trong khi bị rối loạn thì bị rối loạn theo ba cách: do lạnh, do
nóng, do thức ăn thức uống. Tâu đại vương, cái nào là gió, cái nào là mật, cái
nào là đàm, sau khi bị rối loạn do các sự rối loạn bởi chúng, sau khi có sự
trộn lẫn thì kéo theo thọ của từng cái một. Tâu đại vương, thọ do sự thay đổi
của mùa tiết sanh lên do sự thay đổi của mùa tiết, thọ do sự sinh hoạt không
đều đặn sanh lên do sự sinh hoạt không đều đặn. Tâu đại vương, thọ có liên quan
đến việc ra sức thì có cái do hành động, có cái do quả thành tựu của nghiệp.
Thọ sanh lên do quả thành tựu của nghiệp sanh lên do nghiệp đã làm trước đây.
Tâu đại vương, như thế do quả thành tựu của nghiệp thì ít, phần còn lại thì
nhiều hơn. Ở đây, những kẻ ngu vượt quá (khi cho rằng): ‘Tất cả đều do quả
thành tựu của nghiệp;’ thiếu đi trí tuệ của đức Phật không thể thực hiện việc
xác định đối với nghiệp ấy.
Tâu đại vương, hơn nữa việc bàn chân của
đức Thế Tôn đã bị cắt đứt bởi miểng đá, cảm thọ ấy không có nguồn sanh khởi là
gió, không có nguồn sanh khởi là mật, không có nguồn sanh khởi là đàm, không có
liên quan đến sự tụ hội (của gió, mật, đàm), không do sự thay đổi của mùa tiết,
không do sự sinh hoạt không đều đặn, không do quả thành tựu của nghiệp, chỉ có
liên quan đến việc ra sức. Tâu đại vương, bởi vì Devadatta đã buộc oan trái với
đức Như Lai nhiều trăm ngàn kiếp sống. Do sự oan trái ấy, kẻ ấy đã cầm lấy hòn
đá to nặng rồi buông ra (nghĩ rằng): ‘Ta sẽ làm cho rơi ở đỉnh đầu.’ Khi ấy, có
hai tảng đá khác đã tiến đến hứng chịu hòn đá ấy khi còn chưa chạm vào đức Như
Lai. Do sự va chạm của chúng, có miểng đá bị bể đã rơi vào bàn chân của đức Thế
Tôn và làm chảy máu. Tâu đại vương, thọ ấy nảy sanh đến đức Thế Tôn hoặc là do
quả thành tựu của nghiệp hoặc là do hành động; không có thọ khác ở trên việc
ấy.
Tâu đại vương, giống như hạt giống không
nẩy mầm hoặc là do tính chất tồi tệ của thửa ruộng, hoặc là do tính chất tồi tệ
của hạt giống. Tâu đại vương, tương tợ y như thế ấy thọ ấy nảy sanh đến đức Thế
Tôn hoặc là do quả thành tựu của nghiệp hoặc là do hành động; không có thọ khác
ở trên việc ấy.
Tâu đại vương, hoặc là giống như vật thực
trở nên lổn cổn hoặc là do tính chất tồi tệ của bao tử, hoặc là do tính chất
tồi tệ của thức ăn. Tâu đại vương, tương tợ y như thế ấy thọ ấy nảy sanh đến
đức Thế Tôn hoặc là do quả thành tựu của nghiệp hoặc là do hành động; không có
thọ khác ở trên việc ấy.
Tâu đại vương, hơn nữa đối với đức Thế Tôn
không có thọ do quả thành tựu của nghiệp, không có thọ do sự sinh hoạt không
đều đặn. Đối với đức Thế Tôn, thọ sanh lên do các nguồn sanh khởi còn lại. Hơn
nữa, không thể đoạt lấy mạng sống đức Thế Tôn bởi thọ ấy. Tâu đại vương, các
thọ được ưa thích hay không được ưa thích, tốt hay xấu, rơi xuống ở thân tứ đại
này. Tâu đại vương, ở đây cục đất được ném lên không trung thì rơi xuống đại
địa cầu. Tâu đại vương, phải chăng cục đất ấy rơi xuống đại địa cầu do nghiệp đã
làm trước đây?”
5. “Thưa ngài, không đúng. Thưa ngài, không
có nhân ấy ở đại địa cầu, mà do nhân ấy đại địa cầu nhận chịu quả thành tựu
thiện hay bất thiện. Thưa ngài, cục đất ấy rơi xuống đại địa cầu do nhân hiện
tại không có liên quan đến nghiệp.”
“Tâu đại vương, đại địa cầu là như thế nào
thì đức Như Lai nên được xem xét như vậy. Giống như cục đất rơi xuống đại địa
cầu không do nghiệp đã làm trước đây, tâu đại vương, tương tợ y như thế đối với
đức Như Lai miểng đá ấy đã rơi xuống ở bàn chân không do nghiệp đã làm trước
đây. Tâu đại vương, vả lại ở đây con người cắt xẻ và đào xới đại địa cầu, tâu
đại vương, phải chăng con người cắt xẻ và đào xới đại địa cầu do nghiệp đã làm
trước đây?”
“Thưa ngài, không
đúng.”
“Tâu đại vương, tương tợ y như thế ấy miểng đá nào đã rơi
xuống ở bàn chân của đức Thế Tôn, miểng đá ấy đã rơi xuống ở bàn chân của đức
Thế Tôn không do nghiệp đã làm trước đây. Tâu đại vương, còn cơn bệnh xuất
huyết đã phát khởi đến đức Thế Tôn, cơn bệnh ấy đã phát khởi không do nghiệp đã
làm trước đây, nó đã phát khởi có liên quan đến chính sự tụ hội (của gió, mật,
đàm). Tâu đại vương, mọi cơn bệnh thuộc về thân đã phát khởi ở đức Thế Tôn,
chúng đã không sanh ra do nghiệp, mà đã được sanh ra từ nguồn sanh khởi nào đó
trong số sáu nguồn sanh khởi. Tâu đại vương, điều này cũng đã được đức Thế Tôn,
vị Trời vượt trội các vị Trời, nói đến ở lời giải thích cho Moliyasīvaka ở đoạn
Varalañchaka (Dấu Ấn Cao Quý) thuộc Saṃyuttanikāya (Tương Ưng Bộ)
rằng:
‘Này Sīvaka, ở đây, một số cảm thọ sanh lên
có nguồn sanh khởi là mật. Này Sīvaka, tự bản thân nên biết về điều này là một
số cảm thọ sanh lên có nguồn sanh khởi là mật. Này Sīvaka, ngay cả đối với thế
gian điều này cũng được chấp nhận là sự thật rằng một số cảm thọ sanh lên có
nguồn sanh khởi là mật. Này Sīvaka, về điều này những Sa-môn, Bà-la-môn nào có
học thuyết như vầy, có quan điểm như vầy: ‘Bất cứ điều gì mà người nam này cảm
giác được, là lạc, hay là khổ, hay là không khổ không lạc, tất cả điều ấy có
nhân là việc đã làm trong quá khứ,’ họ vượt quá điều đã được tự mình biết, họ
vượt quá điều đã được chấp nhận là sự thật ở thế gian. Vì thế, Ta nói rằng:
‘Điều sai trái thuộc về các Sa-môn, Bà-la-môn ấy.’ Này Sīvaka, ở đây, một số
cảm thọ sanh lên có nguồn sanh khởi là đàm. Này Sīvaka —(như trên)— có nguồn
sanh khởi là gió. Này Sīvaka —(như trên)— có nguồn sanh khởi là sự tụ hội (của
gió, mật, đàm). Này Sīvaka —(như trên)— do sự thay đổi của mùa tiết. Này Sīvaka
—(như trên)— do sự sinh hoạt không đều đặn. Này Sīvaka —(như trên)— có liên
quan đến việc ra sức. Này Sīvaka một số cảm thọ sanh lên do quả thành tựu của
nghiệp. Này Sīvaka tự bản thân nên biết về điều này là một số cảm thọ sanh lên
có nguồn sanh khởi là quả thành tựu của nghiệp. Này Sīvaka, ngay cả đối với thế
gian điều này cũng được chấp nhận là sự thật rằng một số cảm thọ sanh lên có
nguồn sanh khởi là quả thành tựu của nghiệp. Này Sīvaka, về điều này những
Sa-môn, Bà-la-môn nào có học thuyết như vầy, có quan điểm như vầy: ‘Bất cứ điều
gì mà người nam này cảm giác được, là lạc, hay là khổ, hay là không khổ không
lạc, tất cả điều ấy có nhân là việc đã làm trong quá khứ,’ họ vượt quá điều đã
được tự mình biết, họ vượt quá điều đã được chấp nhận là sự thật ở thế gian. Vì
thế, Ta nói rằng: ‘Điều sai trái thuộc về các Sa-môn, Bà-la-môn ấy.’
Tâu đại vương, như thế không hẳn tất cả các thọ sanh ra do
quả thành tựu của nghiệp. Tâu đại vương, sau khi thiêu đốt tất cả pháp bất
thiện, đức Thế Tôn đã đạt đến bản thể Toàn Tri, xin đại vương hãy ghi nhớ điều
này như thế.”
“Thưa ngài Nāgasena,
tốt lắm! Trẫm chấp nhận điều này đúng theo như vậy.”
Thứ Bảy, 28 tháng 9, 2013
CÂU HỎI VỀ SỰ BIẾN MẤT CỦA PHAT PHÁP
1. “Thưa ngài Nāgasena, điều này cũng đã
được đức Thế Tôn nói đến: ‘Này Ānanda, giờ đây Chánh Pháp sẽ tồn tại chỉ còn
năm trăm năm.’ Và thêm nữa, vào thời điểm viên tịch Niết Bàn, được hỏi bởi du
sĩ ngoại đạo Subhadda, đức Thế Tôn đã nói rằng: ‘Này Subhadda, nếu các tỳ khưu
này sống chân chánh, thế gian sẽ không thiếu vắng các vị A-la-hán.’ Đây là lời
nói không thiếu sót, đây là lời nói đầy đủ, đây là lời nói không thay đổi. Thưa
ngài Nāgasena, nếu đức Thế Tôn đã nói rằng: ‘Này Ānanda, giờ đây Chánh Pháp sẽ
tồn tại chỉ còn năm trăm năm,’ như thế thì lời nói rằng: ‘Thế gian sẽ không
thiếu vắng các vị A-la-hán’ là sai trái. Nếu đức Thế Tôn đã nói rằng: ‘Thế gian
sẽ không thiếu vắng các vị A-la-hán,’ như thế thì lời nói rằng: ‘Này Ānanda,
giờ đây Chánh Pháp sẽ tồn tại chỉ còn năm trăm năm’ cũng là sai trái. Câu hỏi
này cũng có cả hai khía cạnh, bị rối rắm còn hơn bụi rậm, mạnh mẽ hơn người lực
sĩ, bị thắt lại còn hơn nút thắt, nó được dành cho ngài. Ở đây, xin ngài hãy
phô bày sự triển khai về năng lực trí tuệ của ngài như là con kình ngư di
chuyển ở giữa biển khơi.”
2. “Tâu đại vương, điều này cũng đã được
đức Thế Tôn nói đến: ‘Này Ānanda, giờ đây Chánh Pháp sẽ tồn tại chỉ còn năm
trăm năm.’ Và vào thời điểm viên tịch Niết Bàn, có lời đã được nói cho du sĩ
ngoại đạo Subhadda rằng: ‘Này Subhadda, nếu các tỳ khưu này sống chân chánh,
thế gian sẽ không thiếu vắng các vị A-la-hán.’ Tâu đại vương, hơn nữa lời nói
ấy của đức Thế Tôn là có ý nghĩa khác nhau và có văn tự khác nhau. Điều này là
giới hạn của Giáo Pháp, điều kia là sự làm sáng tỏ về việc thực hành. Cả hai
điều ấy là cách biệt xa vời với nhau. Tâu đại vương, giống như bầu không gian
là cách biệt xa vời với trái đất, địa ngục là cách biệt xa vời với cõi trời, thiện
là cách biệt xa vời với bất thiện, lạc là cách biệt xa vời với khổ. Tâu đại
vương, tương tợ y như thế cả hai điều ấy là cách biệt xa vời với nhau. Tâu đại
vương, tuy nhiên chớ làm cho câu hỏi của đại vương là vô bổ. Tôi sẽ so sánh và
giảng giải cho đại vương về phần cốt yếu. Điều mà đức Thế Tôn đã nói rằng: ‘Này
Ānanda, giờ đây Chánh Pháp sẽ tồn tại chỉ còn năm trăm năm,’ trong khi làm sáng
tỏ sự hoại diệt ấy Ngài đã xác định phần còn lại rằng: ‘Này Ānanda, Chánh Pháp
có thể tồn tại một ngàn năm nếu các tỳ khưu ni không xuất gia. Này Ānanda, giờ
đây Chánh Pháp sẽ tồn tại chỉ còn năm trăm năm.’ Tâu đại vương, đức Thế Tôn
trong khi nói như vậy phải chăng Ngài nói về sự biến mất của Chánh Pháp hay là
Ngài bác bỏ về sự lãnh hội?”
“Thưa ngài, không phải vậy.”
“Tâu đại vương, trong khi công bố về việc bị tiêu hoại,
trong khi làm sáng tỏ, Ngài đã xác định phần còn lại. Tâu đại vương, giống như
người bị phá sản, sau khi nắm chắc phần còn lại, có thể làm sáng tỏ đối với dân
chúng rằng: ‘Phần hàng hóa của tôi bị mất mát là chừng này, đây là phần còn
lại.’ Tâu đại vương, tương tợ y như thế đức Thế Tôn, trong khi làm sáng tỏ việc
bị tiêu hoại, đã thuyết giảng cho chư Thiên và nhân loại rằng: ‘Này Ānanda, giờ
đây Chánh Pháp sẽ tồn tại chỉ còn năm trăm năm.’
Tâu đại vương, tuy nhiên điều đã được nói bởi đức Thế
Tôn rằng: ‘Này Ānanda, giờ đây Chánh Pháp sẽ tồn tại chỉ còn năm trăm năm;’
điều ấy là giới hạn của Giáo Pháp. Còn điều mà vào thời điểm viên tịch Niết
Bàn, trong lúc công bố cho các vị Sa-môn, Ngài đã nói cho du sĩ ngoại đạo
Subhadda rằng: ‘Này Subhadda, nếu các tỳ khưu này sống chân chánh, thế gian sẽ
không thiếu vắng các vị A-la-hán;’ điều ấy là sự làm sáng tỏ về việc thực hành.
Hơn nữa, đại vương đã khiến cho sự giới hạn và sự làm sáng tỏ trở thành có
chung điều cốt yếu. Nếu đại vương có sự mong muốn, tôi sẽ thuyết giảng. Xin đại
vương hãy chăm chú lắng nghe, hãy chú ý với tâm không bị xao lãng. Tâu đại
vương, ở đây có hồ nước tràn đầy nước mới, trong khi sẽ tràn bờ thì đã được
giới hạn lại, đã được làm con đê bao quanh, khi nước ở chính cái hồ ấy chưa bị
tháo cạn, có đám mây lớn ở phía trên tuần tự đổ mưa liên tục. Tâu đại vương,
phải chăng nước ở hồ nước ấy có thể đi đến sự cạn kiệt, đi đến sự tháo cạn?”
“Thưa ngài, không đúng.”
“Tâu đại vương, vì lý do gì?”
“Thưa ngài, vì sự liên tục của cơn mưa.”
“Tâu đại vương, tương tợ y như thế cái hồ
nước Chánh Pháp cao quý trong Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng, được tràn đầy
nước mới không ô nhiễm là tánh hạnh, giới đức, phận sự, và sự thực hành, là vượt
lên trên, vượt qua khỏi cảnh giới tột cùng của hiện hữu, và tồn tại. Nếu những
người con trai của đức Phật trong Giáo Pháp này có thể liên lục, có thể đổ
xuống tuần tự cơn mưa từ đám mây tánh hạnh, giới đức, phận sự, và sự thực hành,
như thế hồ nước Chánh Pháp cao quý trong Giáo Pháp của đấng Chiến Thắng có thể
tồn tại thời gian lâu dài, và thế gian sẽ không thiếu vắng các vị A-la-hán.
Liên quan đến ý nghĩa này là điều đã được đức Thế Tôn nói đến rằng: ‘Này
Subhadda, nếu các tỳ khưu này sống chân chánh, thế gian sẽ không thiếu vắng các
vị A-la-hán.’
3. Tâu đại vương, hơn nữa ở đây trong khi
đống lửa lớn đang rực cháy, người ta tuần tự đem lại các thứ cỏ, củi, phân bò
khô. Tâu đại vương, phải chăng khối lửa ấy có thể nguội tắt?”
“Thưa ngài, không đúng. Khối lửa ấy có thể
rực cháy hơn nữa, có thể tỏa sáng còn nhiều hơn nữa.”
“Tâu đại vương, tương tợ y như thế Giáo
Pháp cao quý của đấng Chiến Thắng rực cháy, tỏa sáng ở mười ngàn thế giới với
tánh hạnh, giới đức, phận sự, và sự thực hành.
Tâu đại vương, nếu những người con trai của đức Phật
được hội đủ năm chi phần của sự nỗ lực, thường xuyên không bị xao lãng, có thể
nỗ lực còn hơn thế nữa, có thể học tập với lòng ước muốn đã được sanh khởi về
Tam Học, có thể làm đầy đủ một cách trọn vẹn về sự thực hành và sự kiêng cữ về
giới, như thế Giáo Pháp cao quý này của đấng Chiến Thắng có thể tồn tại thời
gian lâu dài còn hơn thế nữa, và thế gian sẽ không thiếu vắng các vị A-la-hán.
Liên quan đến ý nghĩa này là điều đã được đức Thế Tôn nói đến rằng: ‘Này Subhadda,
nếu các tỳ khưu này sống chân chánh, thế gian sẽ không thiếu vắng các vị
A-la-hán.’
4. Tâu đại vương, hơn nữa ở đây họ có thể đánh bóng tuần
tự tấm gương trơn láng, bằng phẳng, khéo được đánh bóng, có ánh sáng, hoàn toàn
trong sáng, bằng bột phấn đỏ trơn và mịn. Tâu đại vương, phải chăng vết bẩn,
bùn, bụi bặm có thể hiện lên ở tấm gương ấy?”
“Thưa ngài, không đúng. Ngược lại, nó còn trở nên trong
sáng hơn nữa.”
“Tâu đại vương, tương tợ y như thế Giáo Pháp cao quý của
đấng Chiến Thắng, tự nhiên vốn không có vết nhơ, đã xa lìa hẳn vết nhơ và bụi
bặm phiền não. Nếu những người con trai của đức Phật có thể nhẫn nại thực hành
Giáo Pháp cao quý của đấng Chiến Thắng với tánh hạnh, giới đức, phận sự, sự
thực hành, sự giảm thiểu, và hạnh từ khước, như thế Giáo Pháp cao quý này của
đấng Chiến Thắng có thể tồn tại thời gian lâu dài, và thế gian sẽ không thiếu
vắng các vị A-la-hán;’ điều đã được đức Thế Tôn nói rằng: ‘Này Subhadda, nếu
các tỳ khưu này sống chân chánh, thế gian sẽ không thiếu vắng các vị A-la-hán’
là có liên quan đến ý nghĩa này. Tâu đại vương, Giáo Pháp của bậc Đạo Sư có căn
bản là sự thực hành, có cốt lõi là sự thực hành, còn tồn tại khi nào sự thực
hành chưa bị biến mất.”
“Thưa ngài Nāgasena, điều ngài nói là: ‘Sự biến mất của
Chánh Pháp,’ sự biến mất của Chánh Pháp ấy là gì?”
“Tâu đại vương, đây là ba sự biến mất của
Giáo Pháp. Ba điều gì? Sự biến mất của việc chứng đắc, sự biến mất của việc
thực hành, sự biến mất của tướng mạo. Tâu đại vương, khi việc chứng đắc bị biến
mất, thì ngay cả đối với những người thực hành tốt đẹp cũng không có sự lãnh
hội Giáo Pháp. Khi việc thực hành bị biến mất, thì điều học và sự quy định bị
biến mất, chỉ còn tướng mạo tồn tại. Khi tướng mạo bị biến mất, thì có sự đứt
đoạn của truyền thống. Tâu đại vương, đây là ba sự biến mất của Giáo Pháp.”
“Thưa ngài Nāgasena, câu hỏi thâm sâu đã
khéo được giảng giải, đã được làm rõ, nút thắt đã được mở ra, lời tuyên thuyết
của ngoại đạo đã bị hư hoại, đã bị đổ vỡ, đã được làm cho không còn hào quang,
ngài đã tiến đến vị thế cao quý nhất trong số các vị có đồ chúng.”
Thứ Sáu, 27 tháng 9, 2013
KHÔNG PHẢI
SỰ THỌ SANH NÀO CŨNG THEO CÁCH BÌNH THƯỜNG
1.
“Thưa ngài Nāgasena, điều này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến: ‘Này các tỳ
khưu, sự nhập vào bào thai được hội tụ bởi ba yếu tố. Ở đây, người mẹ và người
cha kết hợp với nhau, người mẹ có kinh nguyệt, và chúng sanh đi đầu thai đã sẵn
sàng. Này các tỳ khưu, sự nhập vào bào thai được hội tụ bởi ba yếu tố này.’ Đây
là lời nói không thiếu sót, đây là lời nói đầy đủ, đây là lời nói không thay đổi,
đây là lời nói xứng đáng, đã được nói (bởi đức Thế Tôn) sau khi ngồi xuống ở giữa
chư Thiên và nhân loại. Và việc nhập vào bào thai này được hội tụ bởi hai yếu tố
đã được nhìn thấy: ‘Vào thời kỳ kinh nguyệt của nữ đạo sĩ Pārikā, lỗ rún của
nàng đã bị chạm vào bởi ngón tay cái bên phải của đạo sĩ Dukūla, do việc chạm
vào lỗ rún ấy của vị ấy mà đứa bé trai Sāma được sanh ra.[8] Vào thời kỳ kinh
nguyệt của cô gái Bà-la-môn, lỗ rún của nàng cũng đã bị chạm vào bởi ngón tay
cái bên phải của vị ẩn sĩ Mātaṅga, do việc chạm vào lỗ rún ấy của vị ấy mà
thanh niên Bà-la-môn Maṇḍavya được sanh ra.’[9]
Thưa
ngài Nāgasena, nếu điều đã được nói bởi đức Thế Tôn là: ‘Này các tỳ khưu, sự nhập
vào bào thai được hội tụ bởi ba yếu tố,’ như thế thì lời nói rằng: ‘Bé trai
Sāma và thanh niên Bà-la-môn Maṇḍavya, cả hai người ấy được sanh ra do sự chạm
vào lỗ rún’ là sai trái. Nếu điều đã được nói bởi đức Thế Tôn là: ‘Bé trai Sāma
và thanh niên Bà-la-môn Maṇḍavya, cả hai người ấy được sanh ra do sự chạm vào lỗ
rún,’ như thế thì lời nói rằng: ‘Này các tỳ khưu, sự nhập vào bào thai được hội
tụ bởi ba yếu tố’ là sai trái. Câu hỏi này cũng có cả hai khía cạnh, vô cùng
sâu xa, vô cùng khôn khéo, là lãnh vực dành cho những bậc có sự giác ngộ. Nó được
dành cho ngài. Xin ngài hãy chặt đứt sự phân vân. Xin ngài hãy nắm giữ ngọn đèn
cao quý của trí tuệ.”
2.
“Tâu đại vương, điều này cũng đã được đức Thế Tôn nói đến: ‘Này các tỳ khưu, sự
nhập vào bào thai được hội tụ bởi ba yếu tố. Ở đây, người mẹ và người cha kết hợp
với nhau, người mẹ có kinh nguyệt, và chúng sanh đi đầu thai đã sẵn sàng. Sự nhập
vào bào thai được hội tụ bởi ba yếu tố như vậy.’ Và có điều đã được nói là: ‘Bé
trai Sāma và thanh niên Bà-la-môn Maṇḍavya, cả hai người ấy được sanh ra do sự
chạm vào lỗ rún.’”
“Thưa
ngài Nāgasena, như thế thì câu hỏi khéo được giải quyết bằng lý lẽ nào, xin
ngài giúp cho trẫm hiểu bằng lý lẽ ấy.”
5.
“Tâu đại vương, bé trai Sāma và thanh niên Bà-la-môn Maṇḍavya đều có chung một
tính chất, được xếp vào ba sự hội tụ theo trường hợp đầu tiên. Tôi sẽ nói về lý
do của trường hợp này. Tâu đại vương, đạo sĩ Dukūla và nữ đạo sĩ Pārikā, cả hai
người ấy đã có sự cư ngụ ở trong rừng, có khuynh hướng viễn ly, là những người
theo đuổi mục đích tối thượng, do quyền năng của sự khổ hạnh họ đã hâm nóng cho
đến thế giới Phạm Thiên. Khi ấy, Thiên chủ Sakka ngày đêm đi đến phục vụ cho họ.
Trong khi quan tâm đến họ bằng tâm từ được thể hiện với sự kính trong, Thiên chủ
Sakka đã nhìn thấy sự hư hoại thị giác của cả hai người họ vào thời vị lai xa
xăm, sau khi nhìn thấy đã nói với họ rằng: ‘Này hai vị, hãy thực hiện cho trẫm
một việc. Tốt thay, hai vị hãy sanh ra một người con trai. Nó sẽ là người phục
vụ và đỡ đần cho hai vị.’ ‘Này Kosiya, thôi đi! Chớ có lời nói như vậy.’ Họ đã
không chấp nhận lời nói ấy của vị ấy. Là người có lòng bi mẫn, có sự mong mỏi
điều lợi ích, Thiên chủ Sakka đã nói với họ như thế đến lần thứ nhì, đến lần thứ
ba rằng: ‘Này hai vị, hãy thực hiện cho trẫm một việc. Tốt thay, hai vị hãy
sanh ra một người con trai. Nó sẽ là người phục vụ và đỡ đần cho hai vị.’ Đến lần
thứ ba, họ đã nói rằng: ‘Này Kosiya, thôi đi! Ngài chớ ràng buộc chúng tôi vào
việc không có lợi ích. Thân này sẽ không tan rã cho đến khi nào? Thân này có sự
tan rã là pháp tự nhiên, hãy để nó tan rã. Cho dầu trái đất đang bị tan rã, cho
dầu đỉnh núi đang rơi xuống, cho dầu bầu trời đang bị nứt ra, cho dầu mặt trăng
mặt trời đang sụp xuống, chúng tôi cũng không bao giờ hòa nhập với các pháp thế
tục. Ngài chớ đến gần đối mặt với chúng tôi. Chúng tôi nghĩ ngài là hạng làm điều
không có lợi ích; điều ấy là sự tin chắc khi ngài đi đến gần.’
Do
đó, trong khi không đạt được tâm ý của họ, Thiên chủ Sakka đã thể hiện sự kính
trọng, chắp tay lên, thỉnh cầu lần nữa: ‘Nếu hai vị không nỗ lực để thực hiện lời
nói của trẫm, vậy thì lúc nào nữ đạo sĩ là đến thời kỳ, có kinh nguyệt, khi ấy
thưa đạo sĩ, ông có thể chạm vào lỗ rún bằng ngón tay cái bên phải, do việc ấy
nàng ấy sẽ mang thai. Chính điều ấy là sự đã được hội tụ của việc nhập vào bào
thai.’ ‘Này Kosiya, tôi có thể thực hiện điều ấy. Chỉ chừng ấy thì sự khổ hạnh
của chúng tôi sẽ không bị đổ vỡ. Hãy là như thế.’ Họ đã chấp nhận.
Hơn
nữa, vào thời điểm ấy, ở cõi Trời có vị Thiên tử có thiện căn dồi dào, có tuổi
thọ đã cạn kiệt, đã đạt đến sự chấm dứt tuổi thọ, có khả năng hạ sanh theo như
ước muốn, thậm chí vào gia tộc của đức Chuyển Luân. Khi ấy, Thiên chủ Sakka đã
đi đến gặp vị Thiên tử ấy và nói như vầy: ‘Thưa ngài, hãy đến, là ngày vô cùng
rạng rỡ cho ngài. Việc thành công có ý nghĩa đã đến, là việc trẫm đã đi đến phục
vụ cho ngài, ngài sẽ có chốn cư ngụ ở nơi đáng yêu, sẽ có sự tái sanh ở gia tộc
thích hợp, sẽ có sự được nuôi dưỡng bởi cha mẹ tốt lành, hãy đến, hãy làm theo
lời nói của trẫm.’ Rồi đã chắp tay ở đỉnh đầu thỉnh cầu đến lần thứ nhì, thỉnh
cầu đến lần thứ ba. Do đó, vị Thiên tử ấy đã nói như vầy: ‘Thưa ngài, gia tộc
nào mà ngài liên tục ca tụng lập đi lập lại?’ ‘Là đạo sĩ Dukūla và nữ đạo sĩ
Pārikā.’ Lắng nghe lời nói của vị ấy, vị Thiên tử đã hoan hỷ chấp nhận: ‘Thưa
ngài, tốt lắm! Vậy hãy theo ước muốn của ngài. Thưa ngài, tôi đang mong ước có
thể sanh ra ở chủng loại đã được mong mỏi. Vậy tôi được sanh ra ở chủng loại
nào: noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hay hóa sanh?’ ‘Thưa ngài, ngài được sanh
ra theo lối thai sanh.’
6.
Khi ấy, Thiên chủ Sakka, sau khi tính đếm ngày thọ sanh, đã thông báo cho đạo
sĩ Dukūla rằng: ‘Vào ngày ấy, nữ đạo sĩ sẽ đến thời kỳ, có kinh nguyệt, thưa
ngài, khi ấy ngài nên chạm vào lỗ rún bằng ngón tay cái bên phải.’ Tâu đại
vương, vào ngày ấy nữ đạo sĩ đã đến thời kỳ, có kinh nguyệt, và vị Thiên tử đã
đi đến, đã hiện diện ở nơi ấy. Và vị đạo sĩ đã chạm vào lỗ rún của vị nữ đạo sĩ
bằng ngón tay cái bên phải. Như thế, các việc ấy đã là ba sự hội tụ. Do việc chạm
vào lỗ rún, ái luyến đã sanh khởi ở người nữ đạo sĩ. Hơn nữa, ái luyến ấy của
cô ta là do việc chạm vào lỗ rún. Xin đại vương chớ nghĩ rằng việc chạm vào lỗ
rún ấy chính là sự hư hỏng. Cười giỡn cũng là sự hội tụ. Ngợi khen cũng là sự hội
tụ. Chú tâm cũng là sự hội tụ. Do sự sanh khởi của ái luyến đã được tạo ra trước
đó, do sự chạm vào mà sự hội tụ được sanh lên. Do sự hội tụ mà có sự nhập thai.
7.
Tâu đại vương, sự nhập vào bào thai do sự chạm vào thì cũng không ở vào trường
hợp hư hỏng. Tâu đại vương, giống như ngọn lửa đang cháy xua đi sự lạnh cho người
đã đến gần mặc dầu không có sự chạm vào. Tâu đại vương, tương tợ y như thế sự
nhập vào bào thai do sự chạm vào thì cũng không ở vào trường hợp hư hỏng. Tâu đại
vương, sự nhập vào bào thai của chúng sanh là do bốn tác động: Do tác động của
nghiệp, do tác động của nguồn gốc, do tác động của chủng loại, do tác động của
sự thỉnh cầu. Hơn nữa, tất cả chúng sanh này có sự tạo thành do nghiệp, có sự
sanh lên do nghiệp.
Tâu
đại vương, sự nhập vào bào thai của chúng sanh do tác động của nghiệp nghĩa là
thế nào? Tâu đại vương, các chúng sanh có thiện căn dồi dào sanh lên theo như ước
muốn ở gia tộc Sát-đế-lỵ giàu có, hoặc ở gia tộc Bà-la-môn giàu có, hoặc ở gia
tộc người tại gia giàu có, hoặc ở giữa chư Thiên, hoặc từ nguồn gốc noãn sanh,
hoặc từ nguồn gốc thai sanh, hoặc từ nguồn gốc thấp sanh, hoặc từ nguồn gốc hóa
sanh. Tâu đại vương, giống như người nam có tài sản lớn, có của cải lớn, có dồi
dào vàng bạc, dồi dào vật sở hữu dự phòng, có dồi dào tài sản và ngũ cốc, có dồi
dào thân quyến và phe nhóm, sau khi cho ra tài sản đến hai ba lần rồi mua theo
như ước muốn bất cứ vật gì được mong mỏi bởi tâm, hoặc là tớ gái, hay tớ trai,
hoặc là ruộng, vườn, làng mạc, thị trấn, hay là xứ sở. Tâu đại vương, tương tợ
y như thế các chúng sanh có thiện căn dồi dào sanh lên theo như ước muốn ở gia
tộc Sát-đế-lỵ giàu có, hoặc ở gia tộc Bà-la-môn giàu có, hoặc ở gia tộc người tại
gia giàu có, hoặc ở giữa chư Thiên, hoặc từ nguồn gốc noãn sanh, hoặc từ nguồn
gốc thai sanh, hoặc từ nguồn gốc thấp sanh, hoặc từ nguồn gốc hóa sanh. Sự nhập
vào bào thai của chúng sanh do tác động của nghiệp nghĩa là như vậy.
8.
Tâu đại vương, sự nhập vào bào thai của chúng sanh do tác động của nguồn gốc
nghĩa là thế nào? Tâu đại vương, đối với giống gà mái thì có sự nhập vào bào
thai do cơn gió, đối với loài hạc thì có sự nhập vào bào thai do cơn mưa. Thậm
chí toàn bộ chư Thiên không nằm trong bào thai cũng là chúng sanh. Đối với các
hạng ấy thì có sự nhập vào bào thai bằng nhiều cách thức khác nhau. Tâu đại
vương, giống như những con người đi lại trên trái đất theo nhiều cách thức khác
nhau, một số trùm kín phía trước, một số trùm kín phía sau, một số thì lõa thể,
một số thì cạo đầu mang vải màu trắng, một số thì buộc tràng hoa, một số thì cạo
đầu mặc y ca-sa, một số thì mặc y ca-sa cột búi tóc, một số thì bện tóc mang y
bằng vỏ cây, một số thì mặc da thú, một số quấn các sợi dây. Tất cả những con
người này đi lại trên trái đất theo nhiều cách thức khác nhau. Tâu đại vương,
tương tợ y như thế chúng sanh chính là tất cả các hạng ấy. Đối với các hạng ấy
thì có sự nhập vào bào thai bằng nhiều cách thức khác nhau. Sự nhập vào bào
thai của chúng sanh do tác động của nguồn gốc nghĩa là như vậy.
9.
Tâu đại vương, sự nhập vào bào thai của chúng sanh do tác động của chủng loại
nghĩa là thế nào? Tâu đại vương, chủng loại nghĩa là có bốn chủng loại: noãn
sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh. Ở đây nếu chúng sanh đi đầu thai từ bất cứ
nơi đâu đi đến rồi sanh lên ở chủng loại noãn sanh, trong trường hợp ấy nó là hạng
noãn sanh. —(như trên)— ở chủng loại thai sanh —(như trên)— ở chủng loại thấp
sanh —(như trên)— sanh lên ở chủng loại hóa sanh, trong trường hợp ấy nó là hạng
hóa sanh. Các chúng sanh như thế ấy hiện hữu trong các chủng loại ấy. Tâu đại
vương, giống như các con thú hay loài có cánh nào đó đi đến núi Hi-mã-lạp hoặc
núi Sineru, tất cả bọn chúng lìa bỏ màu sắc của mình và trở thành màu sắc vàng
chói. Tâu đại vương, tương tợ y như thế chúng sanh đi đầu thai nào đó từ bất cứ
nơi đâu đi đến rồi nhập vào nguồn gốc noãn sanh thì lìa bỏ vóc dáng thuộc về bản
chất và trở thành hạng noãn sanh. —(như trên)— nhập vào nguồn gốc thai sanh
—(như trên)— thấp sanh —(như trên)— hóa sanh thì lìa bỏ vóc dáng thuộc về bản
chất và trở thành hạng hóa sanh. Sự nhập vào bào thai của chúng sanh do tác động
của chủng loại nghĩa là như vậy.
10.
Tâu đại vương, sự nhập vào bào thai của chúng sanh do tác động của của sự thỉnh
cầu nghĩa là thế nào? Tâu đại vương, ở đây có gia tộc không có con trai, có nhiều
của cải thừa tự, có đức tin, tịnh tín, có giới hạnh, có tư cách tốt đẹp, sống
theo hạnh khắc khổ, và có vị Thiên tử có thiện căn dồi dào và đến thời tử vong.
Khi ấy, Thiên chủ Sakka vì lòng thương tưởng đến gia tộc ấy đã thỉnh cầu vị
Thiên tử ấy rằng: ‘Thưa ngài, xin ngài hãy ngự đến tử cung của người vợ chánh ở
gia tộc kia.’ Do nguyên nhân thỉnh cầu của vị ấy, vị Thiên tử ngự đến gia tộc ấy.
Tâu đại vương, giống như những người có lòng mong mỏi phước báu sau khi thỉnh cầu
vị Sa-môn xứng đáng được phát tâm, thì đi về nhà (nghĩ rằng): ‘Vị này sau khi đến
sẽ là nguồn an lạc cho toàn bộ gia tộc.’ Tâu đại vương, tương tợ y như thế
Thiên chủ Sakka sau khi thỉnh cầu vị Thiên tử ấy thì đi đến gia tộc ấy. Sự nhập
vào bào thai của chúng sanh do tác động của sự thỉnh cầu nghĩa là như vậy.
11.
Tâu đại vương, cậu bé trai Sāma được Thiên chủ Sakka thỉnh cầu đã nhập bào tử
cung của nữ đạo sĩ Pārikā. Mẹ và cha là người có giới hạnh, có tư cách tốt đẹp.
Người thỉnh cầu là Sakka. Cậu bé trai Sāma được sanh ra do tâm nguyện của ba
người. Tâu đại vương, ở đây có người nam rành rẽ cách thức gieo hạt giống ở thửa
ruộng ẩm được cày kỹ lưỡng. Trong khi hạt giống ấy đang được ngăn ngừa tai họa,
phải chăng có thể có tai họa nào đó cho sự phát triển của nó?”
“Thưa
ngài, không thể. Hạt giống không bị hãm hại thì có thể tăng trưởng nhanh
chóng.”
“Tâu
đại vương, tương tợ y như thế cậu bé trai Sāma, được thoát khỏi các tai họa đã
khởi lên, đã được sanh ra do tâm nguyện của ba người. Tâu đại vương, phải chăng
đại vương đã được nghe trước đây có xứ sở rộng lớn, giàu có, thịnh vượng, có
dân cư, đã bị tiêu diệt hoàn toàn bởi tâm khởi sân của các vị ẩn sĩ?”
“Thưa
ngài, đúng vậy. Điều được nghe là ở trái đất khu rừng Daṇḍaka, khu rừng Mejjha,
khu rừng Kāliṅga, khu rừng Mātaṅga, tất cả các khu rừng ấy đã trở thành không
còn là rừng, có trạng thái không phải là rừng, và toàn bộ các xứ sở này cũng đã
đi đến hoại diệt bởi tâm khởi sân của các vị ẩn sĩ.”
“Tâu
đại vương, nếu các xứ sở vô cùng giàu có bị tiêu diệt bởi tâm khởi sân của những
vị ấy, phải chăng có sự an lạc nào đó có thể sanh lên bởi sự hoan hỷ ở tâm của
các vị ấy?”
“Thưa
ngài, đúng vậy.”
“Tâu
đại vương, chính vì điều ấy cậu bé trai Sāma đã được sanh ra do sự hoan hỷ ở
tâm của ba hạng có năng lực là: được tạo ra bởi hai vị ẩn sĩ, được tạo ra bởi vị
Thiên nhân, được tạo ra do phước báu.”
“Tâu
đại vương, xin đại vương hãy ghi nhớ điều này như thế. Tâu đại vương, được thỉnh
cầu bởi Thiên chủ Sakka, ba vị Thiên tử này đã sanh lên ở gia tộc. Ba vị nào? Cậu
bé trai Sāma, (vương tử) Mahāpanāda,[12] và đức vua Kusa.[13] Cả ba người này đều
là các đức Bồ Tát.”
“Thưa
ngài Nāgasena, sự nhập vào bào thai đã đã khéo được giải thích. Lý do đã được
giảng giải rõ ràng. Ánh sáng đã được tạo ra ở nơi tăm tối. Cục rối đã được tháo
gỡ. Học thuyết của những kẻ khác không còn chói sáng. Trẫm chấp nhận điều này
đúng theo như vậy.”
Thứ Năm, 26 tháng 9, 2013
NĂNG LỰC
HUYỀN NHIỆM CỦA CHÂN THẬT
1. “Thưa ngài Nāgasena,
ngài đã nói như vầy: ‘Các con mắt đã được đức vua Sivi bố thí đến kẻ cầu xin,
khi đức vua đã bị mù thì các thiên nhãn đã được tạo ra lại.’[6] Lời nói này
cũng có sự sái quấy, có sự bắt bẻ, có khuyết điểm. Điều đã được nói ở trong
Kinh là: ‘Khi nhân đã bị lấy đi, khi không có nhân, khi không có nền tảng, thì
không có sự tạo ra thiên nhãn.’ Thưa ngài Nāgasena, nếu các con mắt đã được đức
vua Sivi bố thí đến kẻ cầu xin, như thế thì lời nói rằng: ‘Các thiên nhãn đã được
tạo ra lại’ là sai trái. Nếu các thiên nhãn đã được tạo ra, như thế thì lời nói
rằng: ‘Các con mắt đã được đức vua Sivi bố thí đến kẻ cầu xin’ cũng là sai
trái. Câu hỏi này cũng có cả hai khía cạnh, bị thắt lại còn hơn nút thắt, bị xoắn
lại còn hơn vật xoắn, bị rối rắm còn hơn bụi rậm, nó được dành cho ngài. Ở đây,
xin ngài hãy khởi lên ước muốn về việc giải quyết vì sự bắt bẻ của các học thuyết
khác.”
2. “Tâu đại vương, các
con mắt đã được đức vua Sivi bố thí đến kẻ cầu xin. Đại vương chớ khởi lên sự
phân vân về trường hợp ấy. Và các thiên nhãn đã được tạo ra lại. Đại vương cũng
chớ này sanh sự phân vân về trường hợp ấy.”
“Thưa ngài Nāgasena, phải
chăng khi nhân đã bị lấy đi, khi không có nhân, khi không có nền tảng thì thiên
nhãn cũng được tạo ra?”
“Tâu đại vương, không
đúng.”
“Thưa ngài Nāgasena, vậy
thì ở đây điều gì là lý do mà với lý do ấy thiên nhãn lại được tạo ra khi nhân
đã bị lấy đi, khi không có nhân, khi không có nền tảng? Vậy ngài hãy giúp cho
trẫm hiểu bằng lý lẽ.”
3. “Tâu đại vương, có
chăng ở thế gian cái gọi là sự chân thật mà những người có lời nói chân thật về
điều ấy tạo ra sự phát nguyện chân thật?”
“Thưa ngài, đúng vậy. Có
cái gọi là sự chân thật ở thế gian. Thưa ngài Nāgasena, những người nói lời
chân thật với sự chân thật tạo ra sự phát nguyện chân thật khiến cho trời đổ
mưa, khiến cho lửa bị dập tắt,[7] làm tiêu tan chất độc, và còn tạo ra việc có
thể làm các loại khác nữa.”
“Tâu đại vương, như thế
thì nó liên quan, nó phù hợp với việc các thiên nhãn đã được tạo ra cho đức vua
Sivi là nhờ vào năng lực của sự chân thật. Tâu đại vương, nhờ vào năng lực của
sự chân thật mà thiên nhãn đã được tạo ra khi không có nền tảng. Ở đây, chính sự
chân thật là nền tảng cho việc tạo ra thiên nhãn. Tâu đại vương, giống như những
vị đạo sĩ nào đó cầu khấn lời chân thật rằng: ‘Xin cho cơn mưa lớn hãy đổ xuống,’
cùng với việc đã cầu khấn lời chân thật của những người ấy, cơn mưa lớn đổ xuống.
Tâu đại vương, phải chăng có nhân của cơn mưa đã hội tụ lại ở khoảng không mà với
nhân ấy cơn mưa lớn đổ xuống?”
“Thưa ngài, không đúng.
Trong trường hợp ấy, chính sự chân thật là nhân cho việc đổ xuống của cơn mưa lớn.”
“Tâu đại vương, tương tợ
y như thế việc ấy không có nhân bình thường. Trong trường hợp này, chính sự
chân thật là nền tảng cho việc tạo ra thiên nhãn.”
4. “Tâu đại vương, hoặc
là giống như việc những vị đạo sĩ nào đó cầu khấn lời chân thật rằng: ‘Xin cho
khối lửa lớn đã bộc phát hãy quay trở lại;’ cùng với việc đã cầu khấn lời chân
thật của những người ấy, khối lửa lớn đã bộc phát tức thời quay trở lại. Tâu đại
vương, phải chăng ở khối lửa lớn đã bộc phát ấy có nhân đã được hội tụ lại, mà
do nhân ấy khối lửa lớn đã bộc phát tức thời quay trở lại?”
“Thưa ngài, không đúng.
Chính sự chân thật là nền tảng cho việc tức thời quay trở lại của khối lửa lớn
đã bốc phát ấy.”
“Tâu đại vương, tương tợ
y như thế việc ấy không có nhân bình thường. Trong trường hợp này, chính sự
chân thật là nền tảng cho việc tạo ra thiên nhãn.”
5. “Tâu đại vương, hoặc
là giống như việc những vị đạo sĩ nào đó cầu khấn lời chân thật rằng: ‘Xin cho
chất độc dữ dội trở thành thuốc chữa bệnh.’ Tâu đại vương, phải chăng ở chất độc
dữ dội có nền tảng đã hội tụ lại, mà với nền tảng ấy chất độc dữ dội trở thành
thuốc chữa bệnh?”
“Thưa ngài, không đúng.
Trong trường hợp ấy, chính sự chân thật là nguyên nhân cho việc tức thời tiêu
diệt chất độc dữ dội.”
“Tâu đại vương, tương tợ
y như thế trong trường hợp này, chính sự chân thật là nền tảng cho việc tạo ra
thiên nhãn, không phải nhân bình thường.”
“Tâu đại vương, không có
nền tảng nào khác cho việc thâm nhập bốn Chân Lý Cao Thượng. Bốn Chân Lý Cao
Thượng được thâm nhập sau khi đã đặt nền tảng ở sự chân thật. Tâu đại vương, có
đức vua Cīna ở khu vực Cīna. Đức vua có ước muốn tiến hành việc cúng tế ở đại
dương nên đã thực hiện sự phát nguyện chân thật vào mỗi bốn tháng, rồi cùng với
chiếc xe tiến vào trong đại dương một do-tuần. Khối lượng nước vĩ đại đi thụt
lùi ở phía trước đầu chiếc xe của đức vua, đến khi đức vua đã vượt qua thì bao
trùm lại. Tâu đại vương, phải chăng thế gian có cả chư Thiên và nhân loại, với
năng lực của cơ thể bình thường, có thể khiến cho đại dương ấy đi thụt lùi?”
“Thưa ngài, thế gian có
cả chư Thiên và nhân loại, với năng lực của cơ thể bình thường, cũng không thể
khiến cho nước ở hồ nước vô cùng nhỏ đi thụt lùi, thì làm gì được đối với nước ở
đại dương?”
6. “Tâu đại vương, cũng
vì lý do này mà năng lực của sự chân thật được biết đến như vầy: ‘Không có nơi
nào mà sự chân thật không thể đạt đến.’
Tâu đại vương, đức vua
công chính Asoka ở thành phố Pāṭaliputta, được tùy tùng bởi các thị dân, dân
chúng, các viên chức, nhân công, binh lính, và các quan đại thần, sau khi nhìn
thấy sông Gaṅgā tràn đầy nước mới, ngập bờ, trải rộng có bề dài năm trăm do-tuần,
bề ngang một do-tuần, đang trôi chảy, nên đã nói với các quan viên rằng: ‘Này
các khanh, có ai có khả năng làm cho sông Gaṅgā vĩ đại này chảy ngược dòng
không?’ Các quan viên đã nói rằng: ‘Tâu bệ hạ, là việc khó làm.’ Có cô kỹ nữ
tên Bindumatī đứng ở ngay tại bờ sông Gaṅgā ấy đã nghe rằng: ‘Nghe nói đức vua
đã nói như vầy: - Có thể làm cho sông Gaṅgā vĩ đại này chảy ngược dòng không?’
Cô ấy đã nói như vầy: ‘Chính thiếp là người kỹ nữ ở thành phố lớn Pāṭaliputta,
có cuộc sống nhờ vào sắc đẹp, là cách sinh nhai tồi tệ nhất. Mong rằng đức vua
hãy chứng kiến sự phát nguyện chân thật của thiếp.’ Rồi cô ấy đã thực hiện sự
phát nguyện chân thật. Vào giây phút của sự phát nguyện chân thật của cô ấy,
con sông Gaṅgā vĩ đại ấy, trong lúc gầm lên tiếng rì rào, đã chảy ngược dòng
cho đám đông người chứng kiến. Khi ấy, nghe được tiếng ầm ĩ tạo ra bởi tốc độ của
sóng nước bị xoáy tròn, đức vua đã có sự ngạc nhiên được sanh lên do điều kỳ diệu
phi thường, nên đã nói với các quan viên rằng: ‘Này các khanh, do người nào mà
con sông Gaṅgā vĩ đại này chảy ngược dòng?’ ‘Tâu đại vương, cô kỹ nữ Bindumatī
sau khi nghe lời nói của đại vương đã thực hiện sự phát nguyện chân thật. Do sự
phát nguyện chân thật của cô ấy mà con sông Gaṅgā chảy về phía thượng nguồn.’
Khi ấy, có tâm bị chấn động,
đức vua đã đích thân đi đến vô cùng vội vã và đã hỏi cô kỹ nữ ấy rằng: ‘Này cô
gái, nghe nói do sự phát nguyện chân thật của cô mà con sông Gaṅgā này chảy ngược
dòng, có đúng không vậy?’ ‘Tâu bệ hạ, đúng vậy.’ Đức vua đã nói rắng: ‘Cô có
năng lực gì về việc ấy? Ai mà tin lời nói của cô, nếu không bị điên khùng? Do
năng lực gì mà cô đã làm cho con sông Gaṅgā vĩ đại này chảy ngược dòng?’ Cô ấy
đã nói rằng: ‘Tâu đại vương, do năng lực của sự chân thật mà thiếp đã làm cho
con sông Gaṅgā vĩ đại này chảy ngược dòng.’ Đức vua đã nói rắng: ‘Năng lực của
sự chân thật gì có ở nơi cô, khi cô là kẻ trộm, hạng người vô lại, không trong
sạch, lường gạt, độc ác, bóc lột những kẻ mê muội?’ ‘Tâu đại vương, sự thật thì
thiếp là người như thế ấy.
Tâu đại vương, nếu năng
lực của sự chân thật có ở nơi thiếp, thì với điều ấy, trong khi mong muốn, thiếp
cũng có thể xoay chuyển thế gian có cả chư Thiên.’ Đức vua đã nói rắng: ‘Vậy
thì sự phát nguyện chân thật ấy là điều gì?’ ‘Vậy thì xin đại vương hãy lắng
nghe thiếp. Tâu đại vương, người nào dầu là Sát-đế-lỵ, hay Bà-la-môn, hoặc
thương buôn, hay nô lệ, hoặc là bất cứ ai ban cho thiếp của cải, thì thiếp phục
vụ những người ấy đều bình đẳng. Là ‘Sát-đế-lỵ’ không có gì đặc biệt. Là ‘nô lệ’
không có gì khinh chê. Thiếp hầu hạ người có của cải, thoát ra khỏi sự nuông
chiều hay ghét bỏ. Tâu bệ hạ, điều ấy là sự phát nguyện chân thật của thiếp, nhờ
nó mà thiếp đã làm cho con sông Gaṅgā vĩ đại này chảy ngược dòng.’
Tâu đại vương, những người
đứng vững ở sự chân thật cũng như thế, không có bất cứ ý nghĩa nào mà họ không
biết. Tâu đại vương, các con mắt đã được đức vua Sivi bố thí đến kẻ cầu xin, và
các thiên nhãn đã được tạo ra lại. Và điều ấy là do sự phát nguyện chân thật.
Điều đã được nói ở trong Kinh là: ‘Khi nhục nhãn đã bị hư hoại, khi không có
nhân, khi không có nền tảng, thì không có sự tạo ra của thiên nhãn,’ điều ấy được
nói liên quan đến con mắt có vật liệu là sự tu tập. Tâu đại vương, xin đại
vương hãy ghi nhớ điều này như thế.”
“Thưa ngài Nāgasena, tốt
lắm! Câu hỏi đã khéo được tháo gỡ, sự bắt bẻ đã khéo được giải thích, các học
thuyết khác đã khéo được nghiền nát. Trẫm chấp nhận điều này đúng theo như vậy.”
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)