Thứ Bảy, 31 tháng 8, 2013

Bài học ngày 31-08-2013


THẦN LỰC CHÍNH Ở TÂM LỰC
9. Uttarakurukādigamanapañho
9. Rājā āha ‘‘bhante nāgasena, atthi koci, yo iminā sarīrena uttarakuruṃ vā gaccheyya, brahmalokaṃ vā, aññaṃ vā pana dīpa’’nti? ‘‘Atthi, mahārāja, yo iminā cātummahābhūtikena kāyena uttarakuruṃ vā gaccheyya, brahmalokaṃ vā, aññaṃ vā pana dīpa’’nti.
‘‘Kathaṃ, bhante nāgasena, iminā cātummahābhūtikena kāyena uttarakuruṃ vā gaccheyya, brahmalokaṃ vā, aññaṃ vā pana dīpa’’nti? ‘‘Abhijānāsi nu, tvaṃ mahārāja, imissā pathaviyā vidatthiṃ vā ratanaṃ vā laṅghitā’’ti? ‘‘Āma, bhante, abhijānāmi ‘ahaṃ, bhante nāgasena, aṭṭhapi rataniyo laṅghemī’’’ti. ‘‘Kathaṃ, tvaṃ mahārāja, aṭṭhapi rataniyo laṅghesī’’ti? ‘‘Ahañhi, bhante, cittaṃ uppādemi ‘ettha nipatissāmī’ti saha cittuppādena kāyo me lahuko hotī’’ti. ‘‘Evameva kho, mahārāja, iddhimā bhikkhu cetovasippatto kāyaṃ citte samāropetvā cittavasena vehāsaṃ gacchatī’’ti.
‘‘Kallosi, bhante nāgasenā’’ti.
Uttarakurukādigamanapañho navamo.



9. Đức vua đã nói rằng: “Thưa ngài Nāgasena, có người nào có thể đi đến xứ Uttarakuru, hoặc cõi Phạm Thiên, hoặc hòn đảo khác bằng cách phân thân này không?”

“Tâu đại vương, có người có thể đi đến xứ Uttarakuru, hoặc cõi Phạm Thiên, hoặc hòn đảo khác bằng thân tứ đại này.”

“Thưa ngài Nāgasena, làm thế nào có thể đi đến xứ Uttarakuru, hoặc cõi Phạm Thiên, hoặc hòn đảo khác bằng thân tứ đại này?”

“Tâu đại vương, chắc ngài biết rõ là đã nhảy lên khỏi trái đất này một gang tay hoặc một ratana?”[3]

“Thưa ngài, trẫm biết rõ. Thưa ngài Nāgasena, trẫm nhảy lên đến tám ratana.”

“Tâu đại vương, làm thế nào ngài nhảy lên đến tám ratana?”

“Thưa ngài, chính vì trẫm lập tâm rằng: ‘Ta sẽ rơi xuống ở chỗ này.’ Với sự lập tâm ấy, thân thể của trẫm trở thành nhẹ.”

“Tâu đại vương, tương tợ y như thế vị tỳ khưu có thần thông, đã đạt đến năng lực của tâm, sau khi đặt thân vào tâm rồi di chuyển ở không trung bằng năng lực của tâm.”

“Thưa ngài Nāgasena, ngài thật khôn khéo.”

Thứ Sáu, 30 tháng 8, 2013

Bài học ngày 30-08-2013


HÀNH ĐỘNG VÀ SỰ HIỂU BIẾT
8. Jānantājānantapāpakaraṇapañho
8. Rājā āha ‘‘bhante nāgasena, yo jānanto pāpakammaṃ karoti, yo ajānanto pāpakammaṃ karoti, kassa bahutaraṃ apuñña’’nti? Thero āha ‘‘yo kho, mahārāja, ajānanto pāpakammaṃ karoti, tassa bahutaraṃ apuñña’’nti. ‘‘Tena hi, bhante nāgasena, yo amhākaṃ rājaputto vā rājamahāmatto vā ajānanto pāpakammaṃ karoti, taṃ mayaṃ diguṇaṃ daṇḍemā’’ti? ‘‘Taṃ kiṃ maññasi, mahārāja, tattaṃ ayoguḷaṃ ādittaṃ sampajjalitaṃ sajotibhūtaṃ eko jānanto gaṇheyya, eko ajānanto gaṇheyya, katamo [kassa (ka.)] balavataraṃ ḍayheyyā’’ti. ‘‘Yo kho, bhante, ajānanto gaṇheyya, so [tassa (pī. ka.)] balavataraṃ ḍayheyyā’’ti. ‘‘Evameva kho, mahārāja, yo ajānanto pāpakammaṃ karoti, tassa bahutaraṃ apuñña’’nti.
‘‘Kallosi, bhante nāgasenā’’ti.
Jānantājānantapāpakaraṇapañho aṭṭhamo.

8. Đức vua đã nói rằng: “Thưa ngài Nāgasena, người làm nghiệp ác mà biết và người làm nghiệp ác mà không biết, người nào có tội nhiều hơn?”

Vị trưởng lão đã nói rằng: “Tâu đại vương, người nào làm nghiệp ác mà không biết, người ấy có tội nhiều hơn.”

“Thưa ngài Nāgasena, chính vì điều ấy hoàng tử nào hoặc quan đại thần nào của chúng tôi làm nghiệp ác mà không biết, có phải chúng tôi phạt người ấy gấp đôi?”

“Tâu đại vương, đại vương nghĩ gì về điều này? Một người cầm lấy cục sắt được nung nóng, đốt nóng, cháy rực, có ngọn lửa mà không biết, một người cầm lấy mà biết, người nào bị phỏng với mức độ trầm trọng hơn?”

“Thưa ngài, người nào cầm lấy mà không biết, người ấy bị phỏng với mức độ trầm trọng hơn.” 

“Tâu đại vương, tương tợ y như thế người nào làm nghiệp ác mà không biết, người ấy có tội nhiều hơn.”

“Thưa ngài Nāgasena, ngài thật khôn khéo.”



Thứ Năm, 29 tháng 8, 2013

Bài học ngày 29-08-2013


PHƯỚC BÁU THÌ VÔ LƯỢNG
7. Pāpapuññānaṃ appānappabhāvapañho
7. Rājā āha ‘‘bhante nāgasena, kataraṃ nu kho bahutaraṃ puññaṃ vā apuññaṃ vā’’ti? ‘‘Puññaṃ kho, mahārāja , bahutaraṃ, apuññaṃ thoka’’nti. ‘‘Kena kāraṇenā’’ti? ‘‘Apuññaṃ kho, mahārāja, karonto vippaṭisārī hoti ‘pāpakammaṃ mayā kata’nti, tena pāpaṃ na vaḍḍhati. Puññaṃ kho, mahārāja, karonto avippaṭisārī hoti, avippaṭisārino pāmojjaṃ jāyati, pamuditassa pīti jāyati, pītimanassa kāyo passambhati, passaddhakāyo sukhaṃ vedeti, sukhino cittaṃ samādhiyati, samāhito yathābhūtaṃ pajānāti, tena kāraṇena puññaṃ vaḍḍhati. Puriso kho, mahārāja, chinnahatthapādo bhagavato ekaṃ uppalahatthaṃ datvā ekanavutikappāni vinipātaṃ na gacchissati. Imināpi, mahārāja, kāraṇena bhaṇāmi ‘puññaṃ bahutaraṃ, apuññaṃ thoka’’’nti.
‘‘Kallosi, bhante nāgasenā’’ti.
Pāpapuññānaṃ appānappabhāvapañho sattamo.


7. Đức vua đã nói rằng: “Thưa ngài Nāgasena, phước và tội cái nào nhiều hơn?”

“Tâu đại vương, phước thì nhiều hơn, tội thì ít.”

“Vì lý do gì?”

“Tâu đại vương, trong khi làm tội thì có sự ân hận rằng: ‘Nghiệp ác được ta làm,’ do đó ác không tăng trưởng. Tâu đại vương, trong khi làm phước thì không có sự ân hận. Đối với người không có sự ân hận, hân hoan sanh khởi; đối với người được hân hoan, hỷ sanh khởi; đối với người có tâm hỷ, thân khinh an; thân được khinh an thì cảm giác sự an lạc; có sự an lạc, tâm được định tĩnh; đã được định tĩnh, thì nhận biết đúng theo thực thể. Vì lý do ấy, phước tăng trưởng. Tâu đại vương, người có chân tay bị chặt đứt sau khi dâng lên đức Thế Tôn một bó hoa sen thì sẽ không rơi vào đọa xứ chín mươi mốt kiếp. Tâu đại vương, cũng vì lý do này mà tôi nói rằng: ‘phước thì nhiều hơn, tội thì ít.’”

“Thưa ngài Nāgasena, ngài thật khôn khéo.”

Thứ Tư, 28 tháng 8, 2013

Bài học ngày 28-08-2013


NẮM MỘT GÓC LÀ NẮM TẤT CẢ 
6. Bojjhaṅgapañho
6. Rājā āha ‘‘kati nu kho, bhante nāgasena, bojjhaṅgā’’ti? ‘‘Satta kho, mahārāja, bojjhaṅgā’’ti. ‘‘Katihi pana, bhante, bojjhaṅgehi bujjhatī’’ti? ‘‘Ekena kho, mahārāja, bojjhaṅgena bujjhati dhammavicayasambojjhaṅgenā’’ti. ‘‘Atha kissa nu kho, bhante, vuccanti ‘satta bojjhaṅgā’’’ti? ‘‘Taṃ kiṃ maññasi, mahārāja, asi kosiyā pakkhitto aggahito hatthena ussahati chejjaṃ chinditu’’nti. ‘‘Na hi, bhante’’ti. ‘‘Evameva kho, mahārāja, dhammavicayasambojjhaṅgena vinā chahi bojjhaṅgehi na bujjhatī’’ti.
‘‘Kallosi, bhante nāgasenā’’ti.
Bojjhaṅgapañho chaṭṭho.



6. Đức vua đã nói rằng: “Thưa ngài Nāgasena, có bao nhiêu giác chi (chi phần đưa đến giác ngộ)?”

“Tâu đại vương, có bảy giác chi.”

“Thưa ngài, được giác ngộ với bao nhiêu giác chi?”

“Tâu đại vương, được giác ngộ với một giác chi là với trạch pháp giác chi.”

“Thưa ngài, vậy thì tại sao lại được nói là ‘bảy giác chi’?”

“Tâu đại vương, đại vương nghĩ gì về điều này? Cây gươm đã được tra vào vỏ, không được nắm bằng tay, có thể cắt được vật cần phải cắt?”

“Thưa ngài, không thể.”

“Tâu đại vương, tương tợ y như thế thiếu đi trạch pháp giác chi thì không được giác ngộ bằng sáu chi phần (còn lại).”

“Thưa ngài Nāgasena, ngài thật khôn khéo.”

Thứ Ba, 27 tháng 8, 2013

Bài học ngày 27-08-2013

 
TÂM THỨC KHÔNG CÓ HẠN CUỘC CỦA KHÔNG GIAN

5. Dvinnaṃ lokuppannānaṃ samakabhāvapañho

5. Rājā āha ‘‘bhante nāgasena, yo idha kālaṅkato brahmaloke uppajjeyya, yo ca idha kālaṅkato kasmīre uppajjeyya, ko cirataraṃ ko sīghatara’’nti? ‘‘Samakaṃ, mahārājā’’ti.
‘‘Opammaṃ karohī’’ti. ‘‘Kuhiṃ pana, mahārāja, tava jātanagara’’nti? ‘‘Atthi, bhante, kalasigāmo nāma, tatthāhaṃ jāto’’ti. ‘‘Kīva dūro, mahārāja, ito kalasigāmo hotī’’ti. ‘‘Dvimattāni, bhante, yojanasatānī’’ti. ‘‘Kīva dūraṃ, mahārāja, ito kasmīraṃ hotī’’ti? ‘‘Dvādasa, bhante, yojanānī’’ti. ‘‘Iṅgha, tvaṃ mahārāja, kalasigāmaṃ cintehī’’ti. ‘‘Cintito, bhante’’ti. ‘‘Iṅgha, tvaṃ mahārāja, kasmīraṃ cintehī’’ti. ‘‘Cintitaṃ bhante’’ti. ‘‘Katamaṃ nu kho, mahārāja, cirena cintitaṃ, katamaṃ sīghatara’’nti? ‘‘Samakaṃ bhante’’ti. ‘‘Evameva kho, mahārāja, yo idha kālaṅkato brahmaloke uppajjeyya, yo ca idha kālaṅkato kasmīre uppajjeyya, samakaṃ yeva uppajjantī’’ti.
‘‘Bhiyyo opammaṃ karohī’’ti. ‘‘Taṃ kiṃ maññasi, mahārāja, dve sakuṇā ākāsena gaccheyyuṃ , tesu eko ucce rukkhe nisīdeyya, eko nīce rukkhe nisīdeyya, tesaṃ samakaṃ patiṭṭhitānaṃ katamassa chāyā paṭhamataraṃ pathaviyaṃ patiṭṭhaheyya, katamassa chāyā cirena pathaviyaṃ patiṭṭhaheyyā’’ti? ‘‘Samakaṃ, bhante’’ti. ‘‘Evameva kho, mahārāja, yo idha kālaṅkato brahmaloke uppajjeyya, yo ca idha kālaṅkato kasmīre uppajjeyya, samakaṃ yeva uppajjantī’’ti.
‘‘Kallosi, bhante nāgasenā’’ti.
Dvinnaṃ lokuppannānaṃ samakabhāvapañho pañcamo.



5. Đức vua đã nói rằng: “Thưa ngài Nāgasena, người từ trần ở đây rồi sanh vào cõi Phạm Thiên, và người từ trần ở đây rồi sanh vào xứ Kasmīra, ai là lâu hơn, ai là mau hơn?”

“Tâu đại vương, bằng nhau.”

“Xin ngài cho ví dụ.”

“Tâu đại vương, thành phố quê hương của ngài ở đâu?”

“Thưa ngài, có ngôi làng tên là Kalasi. Trẫm sanh ra tại nơi ấy.”

“Tâu đại vương, ngôi làng Kalasi cách đây bao xa?”

“Thưa ngài, khoảng cách hai trăm do-tuần.”

“Tâu đại vương, Kasmīra cách đây bao xa?”

“Thưa ngài, mười hai do-tuần.”

“Tâu đại vương, đại vương hãy nghĩ đến ngôi làng Kalasi đi?”

“Thưa ngài, đã nghĩ đến rồi.”

“Tâu đại vương, đại vương hãy nghĩ đến Kasmīra đi?”

“Thưa ngài, đã nghĩ đến rồi.”

“Tâu đại vương, cái nào đã được suy nghĩ lâu, cái nào mau hơn?”

“Thưa ngài, bằng nhau.”

“Tâu đại vương, tương tợ y như thế người từ trần ở đây rồi sanh vào cõi Phạm Thiên, và người từ trần ở đây rồi sanh vào xứ Kasmīra, họ sanh lên đều bằng nhau.”

“Xin ngài cho thêm ví dụ.”

“Tâu đại vương, đại vương nghĩ gì về điều này? Hai con chim bay ở không trung, một con trong số đó đậu xuống ở cây cao, một con đậu ở cây thấp. Khi chúng đồng thời đáp xuống, bóng của con nào thành lập ở mặt đất trước, bóng của con nào thành lập ở mặt đất lâu hơn?”

“Thưa ngài, bằng nhau.”

“Tâu đại vương, tương tợ y như thế người từ trần ở đây rồi sanh vào cõi Phạm Thiên, và người từ trần ở đây rồi sanh vào xứ Kasmīra, họ sanh lên đều bằng nhau.”

“Thưa ngài Nāgasena, ngài thật khôn khéo.”





Thứ Hai, 26 tháng 8, 2013

Bài học ngày 26-08-2013



TÂM VÀ VẬN TỐC
4. Brahmalokapañho

4. Rājā āha ‘‘bhante nāgasena, kīvadūro ito brahmaloko’’ti? ‘‘Dūro kho, mahārāja, ito brahmaloko kūāgāramattā silā tamhā patitā ahorattena aṭṭhacattālīsayojanasahassāni bhassamānā catūhi māsehi pathaviya patiṭṭhaheyyā’’ti.
‘‘Bhante nāgasena, tumhe eva bhaatha ‘seyyathāpi balavā puriso samiñjita vā bāha pasāreyya , pasārita vā bāha samiñjeyya, evameva iddhimā bhikkhu cetovasippatto jambudīpe antarahito brahmaloke pātubhaveyyā’ti eta vacana na saddahāmi, eva atisīgha tāva bahūni yojanasatāni gacchissatī’’ti.
Thero āha ‘‘kuhi pana, mahārāja, tava jātabhūmī’’ti? ‘‘Atthi, bhante, alasando nāma dīpo, tatthāha jāto’’ti. ‘‘Kīva dūro, mahārāja, ito alasando hotī’’ti? ‘‘Dvimattāni, bhante, yojanasatānī’’ti. ‘‘Abhijānāsi nu tva, mahārāja, tattha kiñcideva karaīya karitvā saritā’’ti? ‘‘Āma, bhante, sarāmī’’ti. ‘‘Lahu kho tva, mahārāja, gatosi dvimattāni yojanasatānī’’ti.
‘‘Kallosi, bhante nāgasenā’’ti.

4. Đức vua đã nói rằng: “Thưa ngài Nāgasena, cõi Phạm Thiên cách đây bao xa?”

“Tâu đại vương, cõi Phạm Thiên cách đây xa lắm. Tảng đá kích thước bằng ngôi nhà mái nhọn bị rơi từ nơi ấy, trong khi rơi xuống ngày đêm bốn mươi tám ngàn do-tuần thì bốn tháng mới có thể đến được trái đất.”

“Thưa ngài Nāgasena, ngài nói như vầy: ‘Cũng giống như người đàn ông có sức mạnh có thể duỗi ra cánh tay đã được co lại, hoặc có thể co lại cánh tay đã được duỗi ra, tương tợ y như thế, vị tỳ khưu có thần thông, đã đạt đến năng lực của tâm, biến mất ở Jambudīpa có thể hiện ra ở cõi Phạm Thiên.’ Trẫm không tin lời nói này. Như vậy vị ấy sẽ di chuyển cực kỳ nhanh đến cả nhiều trăm do-tuần?” 

Vị trưởng lão đã nói rằng: “Tâu đại vương, sanh quán của ngài ở đâu?”

“Thưa ngài, có hòn đảo tên là Alasandā. Trẫm sanh ra tại nơi ấy.”

“Tâu đại vương, Alasandā cách đây bao xa?”

“Thưa ngài, khoảng cách hai trăm do-tuần.”

“Tâu đại vương, phải chăng ngài biết rõ là ngài đã làm một việc cần làm nào đó ở tại nơi ấy và ngài vẫn còn nhớ?”

“Thưa ngài, đúng vậy. Trẫm nhớ.”

“Tâu đại vương, quả là ngài đã di chuyển khoảng cách hai trăm do-tuần một cách nhẹ nhàng.”

“Thưa ngài Nāgasena, ngài thật khôn khéo.”


Thứ Bảy, 24 tháng 8, 2013

Bài học ngày 25-08-2013


NGỪA BỆNH HƠN TRỊ BỆNH
3. Dukkhappahānavāyamapañho

3. Rājā āha ‘‘bhante nāgasena, ki tumhe atītassa dukkhassa pahānāya vāyamathā’’ti? ‘‘Na hi, mahārājā’’ti. ‘‘Ki pana, bhante, anāgatassa dukkhassa pahānāya vāyamathā’’ti? ‘‘Na hi, mahārājā’’ti. ‘‘Ki pana paccuppannassa dukkhassa pahānāya vāyamathā’’ti? ‘‘Na hi, mahārājā’’ti. ‘‘Yadi tumhe na atītassa dukkhassa pahānāya vāyamatha, na anāgatassa dukkhassa pahānāya vāyamatha, na paccuppannassa dukkhassa pahānāya vāyamatha, atha kimatthāya vāyamathā’’ti. Thero āha ‘kinti, mahārāja, idañca dukkha nirujjheyya, aññañca dukkha nuppajjeyyā’ti etadatthāya vāyamāmā’’ti.
‘‘Atthi pana te, bhante nāgasena, anāgata dukkha’’nti? ‘‘Natthi [kathā. 828, 829 passitabba], mahārājā’’ti ‘‘tumhe kho, bhante nāgasena, atipaṇḍitā, ye tumhe asantāna anāgatāna dukkhāna pahānāya vāyamathā’’ti? ‘‘Atthi pana te, mahārāja, keci pairājāno paccatthikā paccāmittā paccupaṭṭhitā hontī’’ti? ‘‘Āma, bhante, atthī’’ti. ‘‘Kinu kho, mahārāja, tadā tumhe parikha khaāpeyyātha, pākāra cināpeyyātha gopura kārāpeyyātha, aṭṭālaka kārāpeyyātha, dhañña atiharāpeyyāthā’’ti? ‘‘Na hi, bhante, paikacceva ta paiyatta hotī’’ti. ‘‘Ki tumhe, mahārāja, tadā hatthismi sikkheyyātha, assasmi sikkheyyātha, rathasmi sikkheyyātha, dhanusmi sikkheyyātha, tharusmi sikkheyyāthā’’ti? ‘‘Na hi, bhante, paikacceva ta sikkhita hotī’’ti. ‘‘Kissatthāyā’’ti? ‘‘Anāgatāna, bhante, bhayāna paibāhanatthāyā’’ti. ‘‘Ki nu kho, mahārāja, atthi anāgata bhaya’’nti? ‘‘Natthi, bhante’’ti . ‘‘Tumhe ca kho, mahārāja, atipaṇḍitā, ye tumhe asantāna anāgatāna bhayāna paibāhanatthāya paiyādethā’’ti.
‘‘Bhiyyo opamma karohīti. ‘‘Ta ki maññasi, mahārāja, yadā tva pipāsito bhaveyyāsi, tadā tva udapāna khaāpeyyāsi, pokkharai khaāpeyyāsi, taāka khaāpeyyāsi ‘pānīya pivissāmī’’’ti? ‘‘Na hi, bhante, paikacceva ta paiyatta hotī’’ti. ‘‘Kissatthāyā’’ti? ‘‘Anāgatāna, bhante, pipāsāna paibāhanatthāya paiyatta hotī’’ti. ‘‘Atthi pana, mahārāja, anāgatā pipāsā’’ti? ‘‘Natthi, bhante’’ti. ‘‘Tumhe kho, mahārāja, atipaṇḍitā , ye tumhe asantāna anāgatāna pipāsāna paibāhanatthāya ta paiyādethā’’ti.
‘‘Bhiyyo opamma karohī’’ti. ‘‘Ta ki maññasi, mahārāja, yadā tva bubhukkhito bhaveyyāsi, tadā tva khetta kasāpeyyāsi, sāli vapāpeyyāsi ‘bhatta bhuñjissāmī’’’ti? ‘‘Na hi, bhante, paikacceva ta paiyatta hotī’’ti. ‘‘Kissatthāyā’’ti. ‘‘Anāgatāna, bhante, bubhukkhāna paibāhanatthāyā’’ti. ‘‘Atthi pana, mahārāja, anāgatā bubhukkhā’’ti? ‘‘Natthi, bhante’’ti. ‘‘Tumhe kho, mahārāja, atipaṇḍitā, ye tumhe asantāna anāgatāna bubhukkhāna paibāhanatthāya paiyādethā’’ti.
‘‘Kallosi, bhante nāgasenā’’ti.
Dukkhappahānavāyamapañho tatiyo

3. Đức vua đã nói rằng: “Thưa ngài Nāgasena, có phải ngài tinh tấn nhằm loại bỏ khổ thuộc quá khứ?”
“Tâu đại vương, không phải.”
“Vậy có phải ngài tinh tấn nhằm loại bỏ khổ thuộc vị lai?”
“Tâu đại vương, không phải.”
“Vậy có phải ngài tinh tấn nhằm loại bỏ khổ thuộc hiện tại?”
“Tâu đại vương, không phải.”
“Nếu ngài không tinh tấn nhằm loại bỏ khổ thuộc quá khứ, không tinh tấn nhằm loại bỏ khổ thuộc vị lai, không tinh tấn nhằm loại bỏ khổ thuộc hiện tại, vậy ngài tinh tấn nhằm mục đích gì?”
Vị trưởng lão đã nói rằng: “Tâu đại vương, làm cách nào để cho khổ này diệt, và khổ khác không thể sanh lên? Chúng tôi tinh tấn nhằm mục đích này.”
“Thưa ngài Nāgasena, vậy (bây giờ) có khổ thuộc vị lai không?”
“Tâu đại vương, không có.”
“Thưa ngài Nāgasena, ngài quả là quá sáng trí khi ngài tinh tấn nhằm loại bỏ các khổ không hiện hữu!”
“Tâu đại vương, vậy có những vị vua đối nghịch, những kẻ thù đối nghịch, những bạn bè đối nghịch chống đối lại ngài không?” 
“Thưa ngài, đúng vậy. Có.”
“Tâu đại vương, phải chăng khi ấy ngài mới bảo đào hào, mới bảo đắp lũy, mới bảo xây cổng thành, mới bảo làm vọng gác, mới bảo đem lại thóc?”
“Thưa ngài, không đúng. Việc ấy là được chuẩn bị trước.”
“Tâu đại vương, phải chăng khi ấy ngài mới rèn luyện về voi, mới rèn luyện về ngựa, mới rèn luyện về xe, mới rèn luyện về cung, mới rèn luyện về gươm?”
“Thưa ngài, không đúng. Việc ấy là được chuẩn bị trước.” 
“Nhằm mục đích gì?”
“Thưa ngài, nhằm mục đích ngăn chặn các nỗi lo sợ thuộc vị lai.”
“Tâu đại vương, phải chăng (bây giờ) có nỗi lo sợ thuộc vị lai?”
“Thưa ngài, không có.”
“Tâu đại vương, đại vương quả là quá sáng trí khi ngài chuẩn bị nhằm mục đích ngăn chặn các nỗi lo sợ thuộc vị lai!”
“Xin ngài cho thêm ví dụ.”
“Tâu đại vương, đại vương nghĩ gì về điều này? Phải chăng khi nào ngài bị khát thì khi ấy ngài mới bảo đào giếng nước, mới bảo đào ao nước, mới bảo đào hồ nước (nghĩ rằng): ‘Ta sẽ uống nước’?”
“Thưa ngài, không đúng. Việc ấy là được chuẩn bị trước.”
“Nhằm mục đích gì?”
“Thưa ngài, được chuẩn bị nhằm mục đích ngăn chặn các sự khát nước còn chưa đến.”
“Tâu đại vương, phải chăng (bây giờ) có sự khát nước ở vị lai?”
“Thưa ngài, không có.”
“Tâu đại vương, đại vương quả là quá sáng trí khi ngài chuẩn bị việc ấy nhằm mục đích ngăn chặn các sự khát nước ở vị lai!”
“Xin ngài cho thêm ví dụ.”
“Tâu đại vương, đại vương nghĩ gì về điều này? Phải chăng khi nào ngài thèm ăn thì khi ấy ngài mới bảo cày ruộng, mới bảo trồng lúa sāli (nghĩ rằng): ‘Ta sẽ thọ dụng bữa ăn’?”
“Thưa ngài, không đúng. Việc ấy là được chuẩn bị trước.”
“Nhằm mục đích gì?”
“Thưa ngài, được chuẩn bị nhằm mục đích ngăn chặn các sự thèm ăn ở vị lai.” 
“Tâu đại vương, phải chăng (bây giờ) có sự thèm ăn ở vị lai?”
“Thưa ngài, không có.” 
“Tâu đại vương, đại vương quả là quá sáng trí khi ngài chuẩn bị việc ấy nhằm mục đích ngăn chặn các sự thèm ăn không hiện hữu ở vị lai!” 
“Thưa ngài Nāgasena, ngài thật khôn khéo.”