Bài Đọc ngày thứ 2 của MC
Phần I Lễ Tam Bảo, Phần này đọc sau khi dứt kinh tụng
Namo Buddhaya
MC1: Con ............. (................ điền khuyết) thành kính đảnh lễ Chư Tôn Ðức Tăng Ni, thân chào tất cả quí vị hiện diện. Hôm nay Thứ hai, ngày 01 tháng 01 năm 2007 Phật lịch 2550. Ðây là chương trình Phật Học trực tiếp thực hiện trên Paltalk mỗi ngày, giờ VN nhằm 8:00 đến 10:30 tối, giờ Houston 7:00 đến 9:30 sáng, giờ NY từ 8:00 đến 10:30 sáng, giờ Cali 5:00 đến 7:30 sáng, giờ Paris 2:00 đến 4:30 chiều, giờ Sydney 12:00 tối đến 2:30 sáng.
Kính thưa quý vị, lớp Lịch Sử Phật Giáo hôm nay chúng ta sẽ học bài CÁC TRƯỜNG PHÁI CHÍNH CỦA PHẬT GIÁO do ÐÐ Siêu Minh giảng giải phần II nội dung chính. Chúng ta sẽ được nghe chư Tôn Ðức giảng giải các phần khác trong bài học, chương trình tiếp tục với các câu đố và kết thúc với bản tin Phật Giáo.
Mở đầu chương trình xin tất cả chúng ta trang nghiêm tam nghiệp đảnh lễ Tam Bảo.
Chúng con xin kính thỉnh Đại Đức Minh Hạnh đọc kinh Lễ Tam Bảo hôm nay. Namo Buddhaya
(Đại Đức Minh Hạnh)
Nhất tâm đảnh lễ Ðức Như Lai bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Ðiều Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.
Nhất tâm đảnh lễ Chánh Pháp do Phật thiện thuyết, thiết thực hiện tiền, vượt ngoài thời gian, đến để chứng nghiệm, hiệu năng hướng thượng, trí giả thân chứng.
Nhất tâm đảnh lễ Chư Tăng đệ tử Thế Tôn bậc diệu hạnh, trực hạnh, như lý hạnh, chân chánh hạnh, gồm bốn đôi tám vị, đáng nhận lễ phẩm, tặng phẩm, tế phẩm, kính lễ, là phước điền vô thượng trong đời.
Nguyện cầu uy đức Phật Bảo
Nguyện cầu uy đức Pháp Bảo
Nguyện cầu uy đức Tăng Bảo
Xin Tam Bảo gia hộ
Ngăn ngừa mọi tai ương
Những hiện tượng bất tường
Những mộng mị xấu xa
Những nghịch duyên trở ngại
Thảy đều mau tan biến
Nguyện muôn loài chúng sanh
Người khổ xin hết khổ
Người sợ hết sợ hãi
Người sầu hết sầu bi
Biết cho với niềm tin
Biết hộ trì giới hạnh
Biết lạc trú trong thiền
Chư thiên đã vân tập
Xin tùy hỷ phước lành
Ðược cát tường như ý
Rồi phản hồi thiên xứ
Chư Toàn Giác đại lực
Chư Ðộc Giác đại lực
Thinh Văn Giác đại lực
Nguyện tổng trì uy đức
Cầu phúc lành phát sanh (lạy)
*****************************
___________________________________________________
(MC1 của phần I: ............... (.............. điền khuyết) )
Kính tri ân Sư Minh Hạnh.
Kính bạch chư tôn đức
Kính thưa đại chúng
Bài Học hôm nay:
"2500 YEARS OF BUDDHISM" - 2500 LỊCH SỬ PHẬT GIÁO
---o0o---
CÁC TRƯỜNG PHÁI CHÍNH CỦA PHẬT GIÁO
A. TẠI ẤN ĐỘ
Tác giả P. V. Bapat
Việt dịch Hữu Song Nguyễn Đức Tư
____________
I. Đại lược
Có lẽ trong thuở sinh tiền của Đức Phật, đã có những người không chịu chấp nhận quyền uy của Ngài. Người anh em họ của Ngài, Đề-bà-đạt-đa (Devadatta), do lòng ganh tỵ với Đức Phật đã âm mưu cùng vua A-xà-thế (Ajatashatru) nhiều lần muốn ám hại Ngài. Ông ta còn tìm mọi cách chia rẽ Tăng già (Sangha) Phật giáo qua việc đòi hỏi các tu sĩ Phật giáo phải sống quanh năm dưới bóng cây, không được ăn các thứ thịt cá, từ chối tất cả mọi lời mời của các tín đồ sùng đạo. Lại có những tu sĩ như Upananda, Channa, Mettiya-Bhummajaka, hay Sadvargiya (tiếng Pali là Chabbaggiya), chỉ thừa cơ để vi phạm các quy định của Luật tạng (Vinaya). Ngoài ra có khuynh hướng kỳ quặc của một số người là chống lại một quy định mà đơn giản chỉ vì qui định đó đã được đặt ra. Một số người muốn cuộc sống đầy đủ, tiện nghi nên ngờ vực mọi sự hạn chế tự do cá nhân. Chẳng hạn Tu-đạt-ta (Subhadra) khi nghe tin Đức Phật nhập diệt đã thở phào nhẹ nhõm cho rằng từ nay mình không bị buộc phải “làm thế này, không làm thế kia” nữa.
Khi Đức Phật nhập diệt, Ngài đã không chỉ định người nào thay thế Ngài ở ngôi vị tối cao. Thực ra, Ngài có nói với thị giả thân tín là A-nan-đà (Ananda) rằng Chánh Pháp (Dharma) và Luật tạng (Vinaya) là người giữ quyền hành tối cao trong tương lai. Tất cả những lời nói được cho là của các Tỳ kheo uyên bác, của Tăng già hoặc ngay của Đức Phật đi nữa, đều phải được đối chiếu trực tiếp với những lời Phật được ghi trong Kinh và Luật.
Chúng con kính cung thỉnh ............ từ bi thuyết giảng Phần I. Đại lược bài học hôm nay. Namo Buddhaya.
II. Nội dung chính
A. Khi có hội nghị kết tập (sangiti) đầu tiên các văn bản của Phật giáo tại Vương-xá (Rajagrha) dưới sự chủ trì của Đại-ca-diếp (Mahakaspyapa), và với sự tham dự của năm trăm Tỳ kheo, thì có một số người như Purana hoặc theo các tài liệu Tây Tạng, Gavampati, đã không tán thành vì họ cảm thấy những gì được ghi chép lại trong hội nghị không phù hợp với những điều họ được nghe từ chính Đức Phật. Những mối bận tâm thường có, sinh ra từ sự gắn bó cá nhân với một người hay một nhóm người nào, hoặc được tạo ra do nhiều nguyên nhân như liên tưởng, tìm hiểu, hoàn cảnh địa dư cũng như những khác biệt tự nhiên về ý kiến ngày càng thêm sâu sắc, có lẽ đã dẫn đến sự hình thành nhiều hệ phái hay trường phái khác nhau.
Lời của Đức Phật cùng các luận giải được các vị thầy truyền lại cho học trò bằng miệng. Tuy nhiên, khác với các bài kinh Vệ đà, người ta đã không thận trọng đúng mức trong việc gìn giữ những lời thực sự của Giáo chủ, chứ chưa nói đến việc bình giải. Trong Kinh Đại bát Niết bàn (Mahaparinibbana-sutta), Giáo chủ đã e ngại những lời mình nói có thể bị bóp méo cho nên, như trên đã nói, Ngài đã lưu ý các đệ tử về bốn cách phải theo để kiểm chứng những lời răn dạy của Ngài. Một thế kỷ là một khoảng thời gian dài và khoảng một trăm năm sau khi Ngài diệt độ, đã nảy sinh dị biệt giữa các Tỳ kheo về lời thực sự của Giáo chủ cùng cách luận giải những lời này. Một khi các Tỳ kheo mặc tình gây chia rẽ trong Tăng đoàn thì mức độ chia rẽ ngày càng gia tăng đến con số mười tám hệ phái trong các thế kỷ thứ 2 và thứ 3 sau khi Đức Phật qua đời. Sự phân phái đầu tiên gây ra bởi các tu sĩ Bạt-kỳ (Vajjian) ở Tỳ-xá-lị (Vaisali). Trong Luật tạng (Vinaya) (Cullavagga) và trong Biên niên sử Tích lan có nói rằng Nghị hội thứ hai được triệu tập tại Tỳ-xá-lị một thế kỷ sau ngày Đại Bát Niết bàn (parinirvana) của Đức Phật để thảo luận về mười giới luật (dasa vatthuni) cải cách của các tu sĩ Bạt-kỳ.
B. Trong các bản dịch tiếng Tây Tạng và chữ Hán của ngài Thế hữu (Vasumitra) cùng các vị khác, người ta thấy có sự tường thuật khác hẳn. Ở đây nói rằng Nghị hội được tất cả do những ý kiến khác biệt giữa các Tỳ kheo về năm giới điều, do Mahadeva khởi xướng.
Quyết định của Nghị hội đã thiên về phía các tu sĩ chính thống. Các tu sĩ Bạt-kỳ không chịu tuân theo quyết định của đa số nên đã bị trục xuất ra khỏi Tăng đoàn. Do đó, Nghị hội đã đi đến một kết cục bất ngờ, sự manh nha chia rẽ từ lâu nay đã thành hiện thực, sự đoàn kết của Tăng đoàn bị đe dọa. Các tu sĩ không tuân phục các quan điểm của phe chính thống tổ chức một Nghị hội khác với sự tham dự của mười nghìn tu sĩ. Thực vậy, đấy là một cuộc tập họp lớn của các tu sĩ cho nên họ được gọi là Đại Chúng bộ (Mahasanghika) để phân biệt với các tu sĩ chính thống được gọi là Thượng Tọa bộ (Theravadin hay Sthaviravadin). Những người ly khai đồng thanh nhất trí tôn trọng quyết định lịch sử của hội nghị của họ. Họ tin tưởng rằng quyết định của họ là phù hợp với giáo lý của Đại bổn sư và tự cho mình là chính thống hơn phái Thượng Tọa bộ. Sự phân phái đầu tiên trong Tăng đoàn đã diễn ra như thế, và đây là nguồn gốc phát sinh hai hệ phái - Thượng Tọa bộ và Đại Chúng bộ. Sự phân phái ngày càng rộng thêm và sau một thời gian thì ngoài hai trường phái nguyên thủy còn xuất hiện nhiều hệ phái khác nữa.
Chúng con kính cung thỉnh ............ từ bi thuyết giảng Phần II. Nội dung chính bài học hôm nay. Namo Buddhaya.
III. Người Xưa Chốn Cũ (TT Giác Đẳng biên soạn)
Hỏi: Xin cho biết chi tiết về Đại Thiên (Mahadeva) ?
Đáp: Mahadeva (Đại Thiên) là con của một người Bà la môn ở Mathura, một nhà uyên bác, thông tuệ. Ông được thọ giới ở Kukkutarama, Hoa-thị thành (Pataliputra), rồi sau trở thành người đứng đầu Tăng đoàn được nhà vua bảo trợ. Năm điều đề xướng của ông là:
(1) Một A-la-hán có thể phạm tội lỗi do bị cám dỗ không hay biết.
(2) Người ta có thể là một A-la-hán mà không biết về điều đó.
(3) Một A-la-hán có thể không biết chắc về những vấn đề trong giáo lý.
(4) Không thể đắc quả A-la-hán nếu không có thầy dạy.
(5) A-la-hán cũng có vị ngộ đạo nhờ vào âm thanh thuyết pháp, trong đó có sự thuyết khổ và than khổ.
Các truyền thuyết về nguyên nhân triệu tập Nghị hội thứ hai không giống nhau. Tuy nhiên, tất cả đều thống nhất ghi nhận rằng đã xảy ra một sự phân phái khoảng một thế kỷ sau khi Đức Phật diệt độ, vì một số tu sĩ tìm cách nới lỏng các giới luật nghiêm nhặt mà các tu sĩ chính thống phải tuân thủ. Các tu sĩ đi chệch ra ngoài giới luật về sau được gọi là “Đại Chúng bộ” (Mahasanghika), còn các tu sĩ chính thống được gọi phân biệt là “Thượng Tọa bộ” (Theravadin hay Sthaviravadin). Đó là “sự phân chia giữa phe bảo thủ và phe tự do, giữa phe phân biệt tôn ti và phe dân chủ”. Điều chắc chắn là Nghị hội này đánh dấu sự ra đời của những trường phái tư tưởng mới.
Chúng con kính cung thỉnh ............ từ bi thuyết giảng Phần III. Người Xưa Chốn Cũ bài học hôm nay. Namo Buddhaya.
IV. Chữ và nghĩa (TT Tuệ Siêu biên soạn câu trả lời)
Hỏi: Từ Pháp và Luật (Dhammavinaya) bao gồm những gì ?
Ðáp: Danh từ Pháp và Luật được dùng từ thời Đức Phật, không như danh từ Tam tạng mới có sau này. Chữ Pháp (Dhamma) bình thường khi xài riêng thì hàm ý là toàn bộ giáo lý cho Đức Phật thuyết như nói Dhammaratana (Pháp bảo) nhưng khi chữ Dhamma được dùng chung với chữ Vinaya thì chữ Dhamma (Pháp) ở đây chỉ cho giáo lý phần kinh tạng và vi diệu pháp, và chữ Vinaya thì chỉ cho phần luật tạng.
Chúng con kính cung thỉnh ............ từ bi thuyết giảng Phần IV. Chữ và nghĩa bài học hôm nay. Namo Buddhaya.
V. Học và hỏi (Sư Tuệ Minh biên soạn câu trả lời)
Hỏi: Sự ra đời của những tông phái Phật giáo có phải là kết tinh của những sáng tạo đáng ca ngợi chăng ?
Ðáp: Sự ra đời của các tông phái Phật giáo là do bất đồng tri kiến. Sự phân chia như vậy càng làm cho giáo lý của Đức Phật "méo mó", chẳng những không giúp người tu Phật tăng tiến mà càng làm tăng hoài nghi giữa các quan điểm của các tông phái.
Nên người tu Phật khi tìm hiểu giáo Pháp phải chiếu theo kinh, y theo luật. Khi đối chiếu ta mới tìm được lời dạy nguyên thủy của Đức Phật.
Chúng con kính cung thỉnh ............ từ bi thuyết giảng Phần V. Học và hỏi bài học hôm nay. Namo Buddhaya.
VI. Đố Vui (TT Giác Đẳng biên soạn)
1. Lý do nào dưới đây tạo nên sự phân hóa Phật Giáo lúc ban đầu ?
a. Sự giải thích sai lạc chánh pháp truyền thống.
b. Do nhu cầu thích hợp văn hóa địa phương.
c. Do địa phương không chấp nhận thống thuộc trung ương.
d. Do sự chuyển dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác.
2. Điều nào dưới đây khiến Phật Pháp được hưng thịnh ?
a. Xây cất cơ sở Phật giáo to lớn.
b. Tìm cách gia tăng số lượng tín đồ.
c. Củng cố sự hiểu biết chân chánh đối với Phật Pháp.
d. Bắt kịp với trào lưu của thời đại.
________________________________________
Phần II: Hồi Hướng này đọc khi kết thúc phần đố vui và giảng sư mời Pt MC lên hoàn mãn buổi học. Giới thiệu bài học hôm sau/ Hồi Hướng (Tri Chúng lên hồi hướng)
Sadhu! Sadhu ! Lành Thay!
Con .......... thay mặt đại chúng trong room, chúng con kính tri ân Chư Tôn Đức đã mở lòng bi mẫn giảng dạy Phật pháp hữu ích cho chúng con, đã hướng dẫn, dìu dắt chúng con tiến bước trên hành trình tu tập hầu mong đem lại an lạc trong đời sống và hướng đến đạo quả giải thoát luân hồi. Nguyện hồi hướng phước báu pháp thí đến Ni Sư Diệu Tịnh được nhiều an lạc, tùy tâm mãn nguyện. Cám ơn đại chúng đã lắng tâm thanh tịnh thính pháp. Kính cám ơn quý chủ nhiệm, Ops, xướng ngôn viên đã yểm trợ cho các phần hành trong lớp học được hoàn tất mỹ mãn. Chúng con kính chúc chư Tôn Đức thân tâm thường lạc, đạo hạnh trang nghiêm, tâm bồ đề viên đắc, Phật đạo chóng viên thành, chúc quý đạo hữu luôn an lạc cát tường trong chánh pháp nhiệm màu của Đức từ phụ Thích Ca Mâu Ni.
Kính Bạch chư Tôn Đức,
Kính thưa quý đạo hữu,
Ngày mai chúng ta sẽ có Lớp Ngôn Ngữ Thiền Môn do TT Giác Đẳng đảm trách phần II Nội Dung Chính và Chư Tôn Đức giảng sư sẽ giảng giải các phần khác trong bài học, với sự điều hợp chương trình của các Ops và MC. Để kết thúc chương trình xin chúng ta nhất tâm hồi hướng.
Nguyện công đức đã làm
Kết duyên lành giải thoát
Nguyện hồi hướng chư thiên
Hàng thiện thần hộ pháp
Nguyện các bậc hữu ân
Ðồng thừa tư công đức
Nguyện chánh pháp trường tồn
Chúng sanh cầu giải thoát
Namo Buddhaya
mở kinh tụng và nhạc, (đóng room)
Kính thưa đại chúng, chương trình sinh hoạt hôm nay đến đây đã kết thúc. Ban điều hành room Diệu Pháp xin phép được đóng room trong vài giây tới. Kính chào tạm biệt tất cả hẹn ngày mai sẽ trở lại trong giờ thường lệ. Namo Buddhaya.