Thứ Bảy, 30 tháng 9, 2006

No. 1141 NEW (Upekha dịch)

Các nhà khảo cổ khai quật thêm

“ chứng tích tu viện” tại Kaplileswar

Friday September 22 2006 10: 17 IST

BHUBANESWAR -- Các nhà khảo cổ đã khai quật thêm phế tích dường như thuộc về kỷ nguyên Phật Giáo tại Kapileswar tthuộc ngoại ô thành phố, điều có thể mang ra ánh sáng những lãnh vực cho đến nay chưa được biết đến về Ðức Phật.

Những phát hiện mới có thể kết thúc những tranh luận bàn cãi kéo dài về nơi Đản Sanh của Đức Phật, tuổi niên thiếu và nếp sống văn hóa của kỷ nguyên hay ... đổ thêm dầu vào lửa của cuộc tranh luận

Công việc khai quật thời gian 10 ngày trong thành phố này do một nhóm của Viện Bảo Tàng Quốc Gia làm việc trên những phần còn tồn đọng lại, những phần mà người ta tin tưởng rằng thuộc về Phật Giáo cổ xưa. Sự phát hiện có thể giúp truy tầm sự hiện hữu của một trung tâm Phật Giáo, nơi đó nhà giám định tin tưởng vậy.

Tìm được một thùng to lớn, một diện tích 60 x 2.5 ft khối đá, đồ gốm, đèn và các đồ tạo tác mang tính chất tín ngưỡng. Thời đại các di tích và nhiều công trình kiến trúc thuộc về thế kỷ thứ 10 trở về trước đến trước Công Nguyên và sớm hơn, những nhà khảo cổ nói như trên.

Quản lý Viện Bảo Tàng và đề án vận động C B Patel nói: "Trong vài ngày qua chúng tôi có phát hiện một số cột trụ đá, những mảnh vỡ có thể một phòng ngủ với phần còn lại của những giường ngủ bằng đá được dùng qua bởi Chư Tăng và các đồ chạm trổ đá hoa. Tất cả những thứ đó cho thấy sự hiện hữu của một tu viện Phật Giáo hay chùa chiền hoặc có thể là cả một thị trấn".

Phần lớn các di vật có tính chất đặc thù của thời đại trước Công Nguyên - những đồ tiền sử làm bằng đất nung đen tối, da trâu đỏ và lối kiến trúc phổ biến pha trộn giữa đá, đất sét và đất cát.

Tòa nhà hai tầng “ Kund” với nấc thang và chỗ ngồi lắp ráp nho nhỏ củng được khám phá.

Việc nghiên cứu tổng quát bắt đầu được mở rộng cho những khu vực gần bên, đặc biệt bên trong và chung quanh ngôi chùa Kapileswar. Hơn nữa những cuộc khai quật được dự trù cho thấy đời sống và văn hóa của thời kỳ giữa thế kỷ 5 và 10 trước Tây Lịch. Giúp đỡ Quốc Gia Viện Bảo Tàng trong vấn đề này là các sinh viên trường Đại Học Utkal của Khoa Khảo Cổ Học.

Trong khi ấy, kế hoạch nêu lên vấn đề nhằm phát triển Kapileswar thành một vẻ đẹp thôn dã cho khang trang ngôi chùa và vườn hoa kế bên.

------------------------------------------------------------------------------------------

No. 1159 NEW (Hạt Cát dịch)

Phi Châu: Cô Nhi Viện Phật Giáo

bị cấm tôn trí tượng Phật


Malawi, Africa - Oct 01, 2006 -- Hội Ðồng Nhân Quyền Malawi, Phi Châu, đã ra lệnh cho một trung tâm Cô Nhi Viện Phật Giáo Ðài Loan dẹp bỏ các pho tượng Phật ở tất cả các túc xá, nói rằng sự hiện diện của các pho tượng chẳng khác nào nhồi sọ trẻ em theo Phật Giáo đi ngược lại với truyền thống của họ. Ký giả Frank Jomo của tờ Ecumennical News International nói như trên.

Trung tâm Cô Nhi Viện Amitofo gần Blantyre thành lập ba năm trước và được xem như là một cô nhi viện lớn nhất Nam Châu Phi được điều hành bởi Phật tử. Trung Tâm đã tôn trí các pho tượng Ðức Phật trong tất cả các dãy túc xá và ngôi chùa tọa lạc bên trong khuôn viên cô nhi viện.

Hội Ðồng Nhân Quyền Malawi là một tổ chức được chính phủ tài trợ và thành viên được tổng thống chỉ định nhưng tính chất của nó là được phép làm việc độc lập để cổ võ nhân quyền ở các nước nam Châu phi.

Cao ủy John Kapito nói hội đồng nhân quyền quyết định như thế căn cứ trên kết quả nghiên cứu của trung tâm về sự than phiền của thân nhân các trẻ em, họ e ngại rằng các em sẽ bị bắt buộc phải theo Phật Giáo.

Ông cao ủy nói thêm họ còn nhận được phàn nàn của thân nhân các em rằng các em không được phép ăn thịt và thăm viếng thân nhân một cách tự do.

Ðiều này vi phạm Ðiều Khoản 23 của Hiến Pháp Malawi, quy định về phương cách đối xử tốt nhất với cô nhi và trẻ em. Ông ủy viên hội đồng Kapito nói như sau trong ngày khai mạc cô nhi viện "Sự kiện này dẫn đến tình trạng dễ dàng ảnh hưởng lên chúng với việc níu kéo chúng đi theo một tôn giáo nào đó một cách miễn cưỡng khi mà chúng không thể tự quyết định tương lai cho chính bản thân của chúng".

Cùng một vấn đề, Bộ phó bộ thông tin Malawi, John Bande, kêu gọi cộng đồng Phật giáo về việc xây dựng một cô nhi viện quy mô nhưng yêu cầu nhân viên tại trung tâm hãy cho phép trẻ em được ăn thịt.

Ðáp lại sự quan tâm của hai viên chức chính phủ, giám đốc của Trung Tâm, pháp sư Hui Li nói rằng "Trong khi trung tâm là một tổ chức Phật Giáo thì không bao giờ có một cô nhi nào bị bắt buộc phải theo Phật giáo hết cả, tuy nhiên trung tâm nhấn mạnh với các em tầm quan trọng của sự tôn sùng tôn giáo giảng dạy hòa bình". Ông cũng kêu gọi sự cảm thông của chính phủ trên vấn đề này và nói rằng tôn tượng chỉ là biểu tượng của hòa bình và trẻ em nên được hướng dẫn và học tập từ đó. Ông nói: "Chúng tôi giới thiệu Phật Giáo cho cô nhi nhưng các em sẽ tự mình quyết định nên theo đuổi tôn giáo nào khi chúng trưởng thành" Ông nói như trên trong ngày lễ khai mạc hồi hai năm trước.


Nhật Hành

Ngày: 30 tháng 09 năm 2006

Tri chúng: Nguồn Đức Hạnh

Tri chúng điền khuyết: Gioi Huong

Môn học: Lớp Luật Nghi Cư Sĩ

Bài học: “ Quan hệ tốt đẹp giữa bạn bè ”


Giảng Sư Chính: ĐĐ Pháp Đăng

Giảng Sư Điền khuyết: TK Giác Đẳng


Vị Tăng hoặc Ni nói lời cầu nguyện đầu lớp học: ĐĐ Minh Hạnh

Xướng ngôn viên: TC/TCdk, LangGiaNguyet, Karuna, Bich Thu, Tinh Tan, Nhu Phuc, Upekha, Anitya, VoThuong09, Dieu Quang, Duong Tieu
http://www.phapluan.net & http://bandieuhanh.blogspot.com

Người mở room: Upekha, Hạt Cát.

Người mở nhạc và kinh tụng: Upekha, Hạt Cát.

Người hoán chuyển bài cho Room: Hat Cat - Tinh Tan.

Người post bài cho Room: Bich Thu, Hat Cat, Upekha, Tinh Tan.

Người post và gửi bài riêng cho chư Tăng: Hat Cat, Upekha.

Trực room (op): Upekha (clean và trực room), Karuna (coi sau nick mới vào room), LangGiaNguyet /Upekha (trực mic giảng sư). Các ops khác bounce nếu cần thì remove all mic.

Thông báo (nếu có): Minh Chau54 xin nghỉ phép thứ năm 28/09 đến hết thứ năm 05/10.
Bài Đọc ngày thứ 7 của MC

Phần I
Lễ Tam Bảo, Phần này đọc sau khi dứt kinh tụng


Namo Buddhaya
MC1: Con ............. (................ điền khuyết) thành kính đảnh lễ Chư Tôn Ðức Tăng Ni, thân chào tất cả quí vị hiện diện. Hôm nay ngày 30 tháng 09 năm 2006 Phật lịch 2550. Ðây là chương trình Phật Học trực tiếp thực hiện trên Paltalk mỗi ngày, giờ VN nhằm 7:30 đến 10:00 tối, giờ Houston 7:30 đến 10:00 sáng, giờ NY từ 8:30 đến 11:00 sáng, giờ Cali 5:30 đến 08:00 sáng, giờ Paris 2:30 đến 5:00 chiều, giờ Sydney 11:30 tối đến 2:00 sáng.

Kính thưa quý vị hôm nay là Lớp Luật Nghi Cư Sĩ chúng ta sẽ học bài Quan hệ tốt đẹp giữa bạn bè do ĐĐ Pháp Đăng giảng giải phần II nội dung chính. Chúng ta sẽ được nghe chư Tôn Ðức giảng giải các phần khác trong bài học, chương trình tiếp tục với các câu đố và kết thúc với bản tin Phật Giáo.

Mở đầu chương trình xin tất cả chúng ta trang nghiêm tam nghiệp đảnh lễ Tam Bảo.

Chúng con xin kính thỉnh Đại Đức Minh Hạnh đọc kinh Lễ Tam Bảo hôm nay. Namo Buddhaya

(Đại Đức Minh Hạnh)

Nhất tâm đảnh lễ Ðức Như Lai bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Ðiều Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

Nhất tâm đảnh lễ Chánh Pháp do Phật thiện thuyết, thiết thực hiện tiền, vượt ngoài thời gian, đến để chứng nghiệm, hiệu năng hướng thượng, trí giả thân chứng.

Nhất tâm đảnh lễ Chư Tăng đệ tử Thế Tôn bậc diệu hạnh, trực hạnh, như lý hạnh, chân chánh hạnh, gồm bốn đôi tám vị, đáng nhận lễ phẩm, tặng phẩm, tế phẩm, kính lễ, là phước điền vô thượng trong đời.

Nguyện cầu uy đức Phật Bảo
Nguyện cầu uy đức Pháp Bảo
Nguyện cầu uy đức Tăng Bảo
Xin Tam Bảo gia hộ
Ngăn ngừa mọi tai ương
Những hiện tượng bất tường
Những mộng mị xấu xa
Những nghịch duyên trở ngại
Thảy đều mau tan biến
Nguyện muôn loài chúng sanh
Người khổ xin hết khổ
Người sợ hết sợ hãi
Người sầu hết sầu bi
Biết cho với niềm tin
Biết hộ trì giới hạnh
Biết lạc trú trong thiền
Chư thiên đã vân tập
Xin tùy hỷ phước lành
Ðược cát tường như ý
Rồi phản hồi thiên xứ
Chư Toàn Giác đại lực
Chư Ðộc Giác đại lực
Thinh Văn Giác đại lực
Nguyện tổng trì uy đức
Cầu phúc lành phát sanh (lạy)
*****************************
___________________________________________________

(MC1 của phần I: ............... (.............. điền khuyết) )

Kính tri ân Sư Minh Hạnh.
Kính bạch chư tôn đức
Kính thưa đại chúng

Bài Học hôm nay:
Quan hệ tốt đẹp giữa bạn bè

(Trích Cư Sĩ Giới Pháp do Tỳ Kheo Giác Giới biên soạn)
____________

I. Đại lược

Đối với nhiều người, kết bạn là việc không cần phải lựa chọn kỹ càng. Tùy thích mà kết giao là lệ thường. Chẳng những vậy, đa số không thấy quan trọng để đặt câu hỏi những gì nên làm trong tư cách là bạn hay đối với bạn. Đức Phật xem tình bằng hữu là một quan hệ quan trọng và nên ý thức rõ cái gì nên làm. Những quan hệ khác thường mang hai cương vị đối chiếu như cha mẹ con cái, vợ chồng, thầy trò. Ở đây song phương vẫn là bằng hữu nhưng có hai vị thế khác biệt cần phân rõ hai cương vị: là bạn tốt, có được bạn tốt.

Điều này cũng được Đức Phật dạy cho gia chủ tử Siṅgālaka, bổn phận giữa bạn bè như sự lễ bái hướng Bắc (Uttarā disā):


Chúng con kính cung thỉnh ............ từ bi thuyết giảng Phần I bài học hôm nay. Namo Buddhaya.

II. Nội dung chính
(Trích Cư Sĩ Giới Pháp do Tỳ Kheo Giác Giới biên soạn)

Năm tư cách của người bạn tốt:

1- Biết cho (Dānena).
2- Biết dùng lời thân ái (Piyavajjena),
3- Biết nghĩ đến lợi ích của bạn (Atthacariyāya).
4- Đối xử bình đẳng (Samānattatāya).
5- Không lừa gạt bạn bè (Avisaṃvādanatāya).

Năm việc nên làm của người có được bạn tốt:

1- Bảo vệ lúc bạn khinh suất (Pamattaṃ rakkhanti).
2- Giữ gìn tài sản cho bạn lúc dể duôi (Pamattassa sāpateyyaṃ rakkhanti).
3- Là chỗ nương cho bạn khi sợ hãi (Bhītassasaranaṃ honti).
4- Lúc hoạn nạn không bỏ nhau (Āpadāsu na vijahanti).
5- Tôn trọng thân quyến của bạn (Aparapajaṃ ca pi'ssa paṭipūjenti). -- [D. III.190]


Chúng con kính cung thỉnh ............ từ bi thuyết giảng Phần II bài học hôm nay. Namo Buddhaya.

III. Người Xưa Chốn Cũ (NS Liễu Pháp biên soạn)

Hỏi: Xin cho biết thêm chi tiết về tôn giả Subhūtivương quốc Sankassa ?

Đáp:
A. Tôn giả Subhūti là con của trưởng giả Sumana và là em trai của ông Cấp Cô Độc. Ngày khánh thành Tịnh Xá Kỳ viên, tôn giả nghe Đức Phật thuyết pháp và xin xuất gia. Sau khi xuất gia, ngài vào rừng tu tập thiền quán, và đắc quả A-la-hán. Do công hạnh thuyết giảng không phân biệt và không có giới hạn, ngài được Đức Phật khen là trú không có tranh luận (araṇavihārinam aggo). Mỗi khi đi khất thực, ngài thường trú trong thiền tâm từ, để cho những người cúng dường ngài được phước báu cao cả, nên ngài còn được Đức Phật khen là tối thắng đáng được cúng dường (dakkhineyyānaṃ aggo).

B. Sankassa là một thành phố cách Sāvatthi ba mươi do tuần. Đó là nơi Đức Phật hiện song thông trước quần chúng và các đạo sĩ ngoại đạo, và cũng là nơi ngài trở về trái đất sau khi thuyết tạng A-tỳ-đàm trên cõi trời Tam Thập Tam thiên. Sự kiện này xảy ra vào ngày lễ Mahāpavārana (lễ tự tứ) sau ba tháng an cư mùa mưa. Chú giải mô tả Ðức Ðế Thích hiện ra ba cái thang phân biệt nhau. Cái giữa làm bằng ngọc pha ly trong suốt, cái bên phải bằng bạc, cái bên trái bằng vàng. Chân thang tại gần cửa thành xứ Sankassa, còn đầu thang thì ở tại chót núi Sineru (Tu Di).

Ðức Thế Tôn ngự đi giữa thang bằng ngọc. Thiên vương Ðế Thích ôm bát đi bên trái, Phạm Thiên che lọng đi bên phải. Còn Càn thát bà ôm đàn đi trước miệng hát tay đàn ca tụng công đức Phật bảo. Khi ấy có Chư Thiên và Phạm Thiên trong tam giới đều hội nhau lại để đảnh lễ đức Thế Tôn. Một ngôi tháp được dựng lên ngay nơi Đức Phật đặt bước chân đầu tiên khi trở về, ngay ở Sakassa.

Chúng con kính cung thỉnh ............ từ bi thuyết giảng Phần III bài học hôm nay. Namo Buddhaya.


IV. Chữ và nghĩa (TT Tuệ Siêu biên soạn câu trả lời)

Hỏi: Chữ "hội chúng" như hội chúng sa môn, hội chúng gia chủ ... trong kinh Phật có nghĩa thế nào ?

Ðáp:
A. Chữ hội chúng, danh từ pālī gọi là parisā, tức là một tập thể gồm có nhiều người cùng chung chí hướng, cùng chung nghề nghiệp, cùng chung giai cấp, hoặc cùng chung một lĩnh vực nào đó.

Trong kinh điển phật giáo có nhắc đến nhiều hội chúng (parisā).

Xã hội cổ Ấn thời Đức Phật có bốn hội chúng là:

a. Hội chúng sát đế lỵ (khattiyaparisā), gồm những người thuộc giai cấp quý tộc, hoàng tộc, vua chúa thời ấy.

b. Hội chúng bà la môn (brāhmaṇaparisā), gồm những người thuộc giai cấp trí thức tôn giáo của xã hội thời ấy.

c. Hội chúng gia chủ (gahapatiparisā), gồm tất cả người thường dân ngoài hai giới quý tộc và bà la môn.

d. Hội chúng sa môn (samaṇaparisā), gồm những hạng tu sĩ, đạo sĩ, là những người xuất gia từ ba hội chúng trên. [A.II.132]

B. Trong đoàn thể tín đồ phật giáo có bốn hội chúng, gọi là tứ chúng, như sau:

a. Hội chúng tỳ kheo (bhikkhuparisā), gồm những nam tu sĩ phật giáo.

b. Hội chúng tỳ kheo ni (bhikkhunīparisā), gồm những nữ tu sĩ phật giáo.

c. Hội chúng cận sự nam (upāsakaparisā), gồm những người nam cư sĩ đã quy y tam bảo.

d. Hội chúng cận sự nữ (upāsikāparisā), gồm những người nữ cư sĩ đã quy y tam bảo. [A.II.132].


Chúng con kính cung thỉnh ............ từ bi thuyết giảng Phần IV bài học hôm nay. Namo Buddhaya.

V. Học và hỏi (Sư Tuệ Minh biên soạn câu trả lời)

Hỏi:
Những lời dạy về tình bằng hữu ở đây có áp dụng cho người xuất gia được chăng ?

Ðáp:
Câu nói rằng: "Ăn cơm có canh, tu hành có bạn" là thể hiện sự cần thiết của tình bạn trong tu tập như cơm không thể thiếu canh.

Có người bạn cùng phạm hạnh hiền thiện có thể khuyên nhủ ta tránh làm điều bất thiện và khuyến khích ta làm điều thiện.

Ngài Xá Lợi Phất và Ngài Mục Kiền Liên là đôi bạn chí thân từ thuở thiếu thời, cùng vui chơi, tìm đạo và giác ngộ. Hai Ngài luôn bên nhau, nhờ vậy mà hai Ngài đã đạt được mục đích cao thượng.

Dù là hàng xuất gia mà còn là phàm phu thì phải còn những ưu phiền, chính những lúc như vậy nhờ tình bạn cùng chia xẻ vượt qua những trở ngại.

Có người bạn hiền thiện thân cận luôn đem lại lợi ích cho người xuất gia trong tu tập lẫn người tại gia trong tìm kế mưu sinh.


Chúng con kính cung thỉnh ............ từ bi thuyết giảng Phần V bài học hôm nay. Namo Buddhaya.


VI. Đố Vui (TT Tuệ Siêu biên soạn)

1. Bằng hữu được nhắc đến trong kinh Phật, ý nghĩa nào dưới đây theo tinh thần phật giáo là người bạn lành:

a. Người đồng cảnh ngộ với mình.
b. Người đồng chí hướng với mình.
c. Người đồng phạm hạnh với mình.
d. Cả ba hạng người trên.

2. Câu tục ngữ “học thầy không tày học bạn”, nghĩa là học thầy không bằng học với bạn bè. Câu nói ấy có hợp lý không ?

a. Không hợp lý, vì thầy bao giờ kiến thức cũng cao hơn đám học trò.
b. Rất hợp lý, vì bạn bè dạy cho ta nhiều lĩnh vực hơn vị thầy.
c. Cũng hợp lý, vì học với bạn bè, tâm lý thoải mái nên dễ tiếp thu hơn học thầy.
d. Cũng tùy, có trường hợp trao đổi học tập với bạn bè dễ hơn thầy.

3/ Qua những lời dạy của Đức Phật về quan hệ tốt giữa bạn bè, điều nầy cho thấy:

a. Phật pháp ứng dụng thực tế trong đời sống.
b. Phật pháp hướng dẫn lợi ích trong mọi trường hợp.
c. Phật pháp rất gần gũi với đời thường.
d. Cả ba câu đều đúng.


________________________________________

Phần II:
Hồi Hướng này đọc khi kết thúc phần đố vui và giảng sư mời Pt MC lên hoàn mãn buổi học. Giới thiệu bài học hôm sau/ Hồi Hướng (Tri Chúng lên hồi hướng)

Sadhu! Sadhu ! Lành Thay!
Con .......... thay mặt đại chúng trong room, chúng con kính tri ân Chư Tôn Đức đã mở lòng bi mẫn giảng dạy Phật pháp hữu ích cho chúng con , đã hướng dẫn, dìu dắt chúng con tiến bước trên hành trình tu tập hầu mong đem lại an lạc trong đời sống và hướng đến đạo quả giải thoát luân hồi. Nguyện hồi hướng phước báu pháp thí đến Ni Sư Diệu Tịnh được nhiều an lạc, tùy tâm mãn nguyện. Cám ơn đại chúng đã lắng tâm thanh tịnh thính pháp. Kính cám ơn quý chủ nhiệm, Ops, xướng ngôn viên đã yểm trợ cho các phần hành trong lớp học được hoàn tất mỹ mãn. Chúng con kính chúc chư Tôn Đức thân tâm thường lạc, đạo hạnh trang nghiêm, tâm bồ đề viên đắc, Phật đạo chóng viên thành, chúc quý đạo hữu luôn an lạc cát tường trong chánh pháp nhiệm màu của Đức từ phụ Thích Ca Mâu Ni.

Kính Bạch chư Tôn Đức,
Kính thưa quý đạo hữu,

Ngày mai chúng ta sẽ có Lớp Phật Học Thường Thức do ĐĐ Tuệ Quyền đảm trách phần II Nội Dung Chính và chư Tôn Ðức giảng sư trong room Diệu Pháp ở các phần khác, với sự điều hợp chương trình của các OpsMC. Để kết thúc chương trình xin chúng ta nhất tâm hồi hướng.

Nguyện công đức đã làm
Kết duyên lành giải thoát
Nguyện hồi hướng chư thiên
Hàng thiện thần hộ pháp
Nguyện các bậc hữu ân
Ðồng thừa tư công đức
Nguyện chánh pháp trường tồn
Chúng sanh cầu giải thoát
Namo Buddhaya

mở kinh tụng và nhạc, (đóng room)

Kính thưa đại chúng, chương trình sinh hoạt hôm nay đến đây đã kết thúc. Ban điều hành room Diệu Pháp xin phép được đóng room trong vài giây tới. Kính chào tạm biệt tất cả hẹn ngày mai sẽ trở lại trong giờ thường lệ. Namo Buddhaya.

Thứ Sáu, 29 tháng 9, 2006

No. 1151 NEW (Tinh Tấn dịch)

MC1 ............. / DK: ...............

Cuộc hành trình mới với thiền định tại Clove & Clive

Được viết bởi Chuah Ai Jou, The Buddhist Channel

Ngày 25 tháng 09, 2006

Petaling Java, Malaysia -- Ngày 25 tháng 09, 2006 nhìn thấy sự ra đời của một trung tâm thiền định mới, Clove & Clive ở Kelana Jaya, một vùng ngoại ô thương mãi của tỉnh Petaling Jaya.

Được thành lập với mục đích mang lại nhiều tỉnh giác tâm linh cho quần chúng, Clove & Clive cung hiến những chương trình thiền định về thực hành Minh Sát và tâm từ và phương tiện hiện tại. Trung tâm chào đón bất cứ ai có chiều hướng nghiêng về tự phát triển để am hiểu hơn chính tư tưởng và tâm linh của họ.

Trung tâm này cũng có lẽ là một trong vài trung tâm hiếm có cung hiến những lớp thiền định cho những người vô tín ngưỡng và mở rộng cho những người tham dự mà không phân biệt chủng tộc và tôn giáo.

Danh hiệu của trung tâm, Clove & Clive, đã được bắt nguồn từ những chủ đề trong các lớp đặt trọng tâm trên: ý thức về tình thương (Clove) và tỉnh thức trong cuộc sống (Clive)

Những người sáng lập là đôi vợ chồng Hor Tuck Loon và Chan Lai Fun đã có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lãnh vực thiền định như thầy hướng dẫn, huấn luyện, hướng dẫn, hành giả, MC, và tổ chức viên. Tất cả những vai trò này đã được đầy ý nghĩa trong hành trình của họ để cảm xúc, chuyển hướng, và truyền cảm đến người khác.

“Suốt hơn hai thập niên học hỏi với các thiền sư nổi danh và cuộc hành trình của chính chúng tôi trong thiền định, Lai Fun và tôi đã dạy và chia xẻ với nhiều người có trí tuệ. Sự thay đổi nội tâm mà họ đã trải qua và cách họ nhìn cuộc đời đổi mới cho chúng tôi biết rằng có một sự khẩn trương lớn lao để đạt tới”. Ông Tuck Loon chia xẻ như trên.

Ông Tuck Loon, một nhà minh họa đồ thị, và bà Lai Fun, một cố vấn về Tin Hoc (IT) với một cơ quan dầu và gas của nhiều quốc gia trong vòng 9 năm, đã bỏ việc cách đây vài năm để tiến hành trọn thời gian trong việc giảng dạy thiền định.

MC2 ............. / DK: ...............

Gia nhập với họ là Ông Choy Boon Ling, một huấn luyện viên của công ty với 14 năm kinh nghiệm, là người đã tha thiết chia xẻ niềm tin của họ để giúp đỡ những người khác tăng trưởng tích cực trong một đời sống dẫn đầu với nhiều tình thương và trí tuệ.

Tại trung tâm, ba vị sẽ mở những lớp thư giản để cung hiến một phương tiện hiện thời vào thiền định, dùng Minh Sát và Tâm Từ như những khí cụ để hướng dẫn thiền sinh thông hiểu cơ chế tâm linh và biến đổi những viễn cảnh của họ trên mỗi khía cạnh của đời sống, từ công việc đến tương giao.

Những chương trình tại Clove & Clive được minh họa cho các tầng lớp khác nhau từ những người sơ học, trung học, và thiền sinh kinh nghiệm. Có những lớp bổ túc sẵn sàng cho mỗi tầng lớp, đáp ứng để khuyến khích sự thực hành thiền định liên tục sẽ mang lại kết quả trong sự phát triển tự nhiên để tạo thành một đường hướng cho đời sống.

Bên cạnh những buổi học hàng tuần, những lớp thiền thực tập cũng sẽ được hướng dẫn cuối tuần. Các lớp được duy trì với số ít thiền sinh để hướng dẫn từng cá nhân và dễ dàng chia xẻ kinh nghiệm của từng thiền sinh và phản ảnh đến các vị thầy hướng dẫn và người khác.

Clove & Clive đã được thành lập với nền đạo đức rộng lớn và sự ủng hộ tài chính từ các bạn bè tín nhiệm với các sáng lập viên. Trong giai đoạn ban sơ, các lớp được trợ cấp tối đa và xếp theo một danh sách học phí từ 160RM (US$42) đến 190 RM (Ringgit Malaysia) (US$50)cho từng lớp.

------------------------------------------------------------------------------------------

No. 1156 NEW (Hạt Cát dịch)

Trung tâm Phật Giáo

sẽ được thành lập tại Israel, Trung Ðông


BEIT SHEMESH, September 28 (UPI) -- Một nhóm Phật tử đang thành lập một trung tâm nghiên cứu Phật Giáo đa khoa tại Israel để "Mang Viễn Ðông đến cho Trung Ðông".

Trung tâm nghiên cứu Phật giáo Israel ( viết tắt ICSB) là một học viện nghiên cứu bất vụ lợi nhằm mục đích mang lại một sự hiểu biết về căn bản và lịch sử Phật Giáo như một cái nhìn toàn diện từ buổi sơ thời cho đến hiện tại để xã hội Israeli có thể hiểu rõ ràng hơn về Viễn Ðông, một phát ngôn viên đã nói như trên hôm thứ Năm.

Trung Tâm ICSB sẽ là học viện duy nhất từ Morroco đến A Phú Hãn, và từ Thổ Nhĩ Kỳ đến Yemen nghiên cứu về Phật Giáo và nền tảng văn hóa của nó (Ấn Ðộ, Ðông Nam Á, Trung Quốc và Tây Tạng), cá biệt cũng như toàn diện, từ quá khứ cho đến ngày nay.

Thứ nữa, nó sẽ thử làm quen với Viễn Ðông - đặc biệt là Trung Quốc và Ấn Ðộ - với Do Thái giáo và vai trò của nó tại Israel. Ðây là hai con đường trái ngược nhau, một bên trong và một bên ngoài diện mạo. Ðó là những gì làm cho Trung Tâm Nghiên Cứu Phật Giáo Israel là một trung tâm khác thuờng.


Nhật Hành

Ngày: 29 tháng 09 năm 2006

Tri chúng: Tinh Tấn

Tri chúng điền khuyết: Bich Thu

Môn học: A Tỳ Đàm

Bài học: Tiêu Đề Kinh Tạng (SUTTANTAMATIKA)

Giảng Sư Chính: TT Tuệ Siêu

Giảng Sư Điền khuyết: TT Giác Đẳng

Vị Tăng hoặc Ni nói lời cầu nguyện đầu lớp học: ĐĐ Minh Hạnh

Xướng ngôn viên: Tinh Tan, Anitya, Hatcat, Bich Thu, Nguon Đuc Hanh, Sangkhaly, Nhu Phuc, Upekha, Karuna, Minh Chau54 ….. http://www.phapluan.net & http://www.bandieuhanh.blogspot.com

Người mở room: Bich Thu, Tinh Tan.

Người mở nhạc và kinh tụng: Bich Thu, Tinh Tan.

Người hoán chuyển bài cho Room: Nguon Duc Hanh – Hat Cat (đk)

Người post bài cho Room: Tinh Tan, Bich Thu, Upekha.

Người post và gửi bài riêng cho chư Tăng: Upekha, NguonDucHanh.

Trực room (op): Upekha /Bich Thu dk.

Thông báo (nếu có): Minh Chau54 xin nghỉ phép thứ năm 28/09 đến hết thứ năm 05/10.
Bài Đọc ngày thứ 6 của MC

Phần I
Lễ Tam Bảo, Phần này đọc sau khi dứt kinh tụng


Namo Buddhaya
MC1: Con ............. (................ điền khuyết) thành kính đảnh lễ Chư Tôn Ðức Tăng Ni, thân chào tất cả quí vị hiện diện. Hôm nay ngày 29 tháng 09 năm 2006 Phật lịch 2550. Ðây là chương trình Phật Học trực tiếp thực hiện trên Paltalk mỗi ngày, giờ VN nhằm 7:30 đến 10:00 tối, giờ Houston 7:30 đến 10:00 sáng, giờ NY từ 8:30 đến 11:00 sáng, giờ Cali 5:30 đến 08:00 sáng, giờ Paris 2:30 đến 5:00 chiều, giờ Sydney 11:30 tối đến 2:00 sáng.

Kính thưa quý vị hôm nay là Lớp A Tỳ Đàm chúng ta sẽ học bài Tiêu Đề Kinh Tạng (SUTTANTAMATIKA) do TT Tuệ Siêu giảng giải phần II nội dung chính. Chúng ta sẽ được nghe chư Tôn Ðức giảng giải các phần khác trong bài học, chương trình tiếp tục với các câu đố và kết thúc với bản tin Phật Giáo.

Mở đầu chương trình xin tất cả chúng ta trang nghiêm tam nghiệp đảnh lễ Tam Bảo.

Chúng con xin kính thỉnh Đại Đức Minh Hạnh đọc kinh Lễ Tam Bảo hôm nay. Namo Buddhaya

(Đại Đức Minh Hạnh)

Nhất tâm đảnh lễ Ðức Như Lai bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Ðiều Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

Nhất tâm đảnh lễ Chánh Pháp do Phật thiện thuyết, thiết thực hiện tiền, vượt ngoài thời gian, đến để chứng nghiệm, hiệu năng hướng thượng, trí giả thân chứng.

Nhất tâm đảnh lễ Chư Tăng đệ tử Thế Tôn bậc diệu hạnh, trực hạnh, như lý hạnh, chân chánh hạnh, gồm bốn đôi tám vị, đáng nhận lễ phẩm, tặng phẩm, tế phẩm, kính lễ, là phước điền vô thượng trong đời.

Nguyện cầu uy đức Phật Bảo
Nguyện cầu uy đức Pháp Bảo
Nguyện cầu uy đức Tăng Bảo
Xin Tam Bảo gia hộ
Ngăn ngừa mọi tai ương
Những hiện tượng bất tường
Những mộng mị xấu xa
Những nghịch duyên trở ngại
Thảy đều mau tan biến
Nguyện muôn loài chúng sanh
Người khổ xin hết khổ
Người sợ hết sợ hãi
Người sầu hết sầu bi
Biết cho với niềm tin
Biết hộ trì giới hạnh
Biết lạc trú trong thiền
Chư thiên đã vân tập
Xin tùy hỷ phước lành
Ðược cát tường như ý
Rồi phản hồi thiên xứ
Chư Toàn Giác đại lực
Chư Ðộc Giác đại lực
Thinh Văn Giác đại lực
Nguyện tổng trì uy đức
Cầu phúc lành phát sanh (lạy)
*****************************
___________________________________________________

(MC1 của phần I: ............... (.............. điền khuyết) )

Kính tri ân Sư Minh Hạnh.
Kính bạch chư tôn đức
Kính thưa đại chúng

Bài Học hôm nay:

Tiêu Đề Kinh Tạng (SUTTANTAMATIKA)
____________

I. Đại lược

Mới nghe những pháp được trình bày trong A Tỳ Đàm dường như xa lạ khác biệt với Kinh Tạng. Thực ra không hẳn như thế. Kinh Tạng và Diệu Pháp Tạng trong Tam tạng Pālī nhất quán trên cả ba phương diện pháp học, pháp hành, và pháp thành. Phần tiếp theo của chương trình A Tỳ Đàm là TIÊU ĐỀ KINH TẠNG, là những đề tài tìm thấy trong Kinh Tạng nhưng chi pháp lấy từ A Tỳ Đàm. Ngài Tịnh Sự dịch là "Nhị đề kinh" được hiểu là "những tiêu đề có hai pháp lấy từ Kinh tạng". Những tiêu đề nầy được trích từ bộ Pháp Tụ (Dhammasaṅganī).

Chúng con kính cung thỉnh ............ từ bi thuyết giảng Phần I bài học hôm nay. Namo Buddhaya.

MC 2 ................. / ĐK: ..................

II. Nội dung chính (TK Giác Đẳng biên soạn)

A. Trong Kinh Tạng có A Tỳ Đàm và ngược lại.

Những đề tài như uẩn, xứ, giới, đế được tìm thấy trong Kinh Tạng lại là đề tài lớn trong A Tỳ Đàm. Những đề tài như nghiệp, quả của nghiệp, các cảnh giới tái sanh trong A Tỳ Đàm cũng được tìm thấy trong Kinh Tạng. Sự tương quan của hai tạng là đề tại quan trọng.

B. Nhờ nêu chi pháp nên đề pháp được phân định.

Nếu chỉ căn cứ trên đề pháp mà không nói rõ chi pháp giống như nói về một loại bánh mà không nói rõ thành phần. Tên bánh không đủ để nói rõ về hương vị và phẩm chất của bánh. Trong phần "Tiêu đề kinh tạng" là một trình bày hiếm hoi về bản thể pháp của một số đề tài quen thuộc thường nghe qua kinh tạng. Sự trình bày chi pháp của các tiêu đề cũng giúp tránh nhiều trường hợp "có tích dịch ra tuồng" do tình trạng thiếu đơn cử rõ ràng.

C. Tiêu đề kinh tạng không những có lợi cho việc nghiên cứu kinh tạng mà còn cho thấy sự thưc dụng của A Tỳ Đàm.

Ngoài sự chuẩn xác, A Tỳ Đàm có những ứng dụng lợi ích trong đời sống hằng ngày và thiền định. Ngài Narada viết:

Đối với bậc thiện trí thức muốn tìm chân lý, Tạng Luận là quyển kinh chỉ đạo khẩn yếu, vừa là một tập khải luận vô giá. Ở đây có đủ thức ăn tinh thần cho các học giả muốn mở mang trí tuệ và đời sống lý tưởng của người Phật tử. Vi Diệu Pháp không phải loại sách để đọc thoáng qua cầu vui hay giải trí.

Khoa tâm lý học hiện đại, còn hạn định, vẫn nằm trong phạm vi của Vi Diệu Pháp khi đề cập đến tâm, tư tưởng, tiến trình tư tưởng, các trạng thái tâm. Nhưng Tạng Luận không chấp nhận có một linh hồn, hiểu như một thực thể trường tồn bất biến. Như vậy, Vi Diệu Pháp dạy một thứ tâm lý học trong đó không có linh hồn.


Chúng con kính cung thỉnh ............ từ bi thuyết giảng Phần II bài học hôm nay. Namo Buddhaya.

III. Đề Pháp và Chi Pháp

Có tất cả 42 đề pháp trong phần TIÊU ĐỀ KINH TẠNG

01. Tiêu Ðề Phân Minh
02. Tiêu Ðề Tợ Ðiển
03. Tiêu Ðề Ngu Nhơn
04. Tiêu Ðề Hắc Pháp
05. Tiêu Ðề Viêm
06. Tiêu Ðề Ước Ðịnh
07. Tiêu Ðề Ngôn Ngữ
08. Tiêu Ðề Chế Ðịnh
09. Tiêu Ðề Danh Sắc
10. Tiêu Ðề Vô Minh
11. Tiêu Ðề Hữu Kiến
12. Tiêu Ðề Thường Kiến
13. Tiêu Ðề Hữu Tận Kiến
14. Tiêu Đề Hữu Tiền Kiến
15. Tiêu Đề Vô Tàm
16. Tiêu Đề Tàm
17. Tiêu Đề Nan Giáo
18. Tiêu Đề Dị Giáo
19. Tiêu Đề Tri Quá
20. Tiêu Đề Nhậpp Thiền
21. Tiêu Đề Tri Giới
22. Tiêu Đề Tri Xứ
23. Tiêu Đề Sớ Sinh
24. Tiêu Đề Chánh Trực
25. Tiêu Đề Kham Nhẫn
26. Tiêu Đề Cam Ngôn
27. Tiêu Đề Bất Thu Thúc Môn Quyền
28. Tiêu Đề Thu Thúc Môn Quyền
29. Tiêu Đề Thất Niệm
30. Tiêu Đề Chánh Niệm
31. Tiêu Đề Gián Trạch
32. Tiêu Đề Tịnh Chỉ
33. Tiêu Đề Ấn Chứng
34. Tiêu Đề Tinh Tấn
35. Tiêu Đề Suy Vong
36. Tiêu Đề Tăng Thượng
37. Tiêu Đề Thanh Tịnh
38. Tiêu Đề Kiến Tịnh
39. Tiêu Đề Khô Quán
40. Tiêu Đề Vô Bảo Thiện
41. Tiêu Đề Thông Minh
42. Tiêu Đề Diệt Trí


Chúng con kính cung thỉnh ............ từ bi thuyết giảng Phần III bài học hôm nay. Namo Buddhaya.


IV. Chữ và nghĩa (TT Tuệ Siêu biên soạn câu trả lời)

Hỏi: Đề pháp và chi pháp khác nhau thế nào ?

Ðáp:
Đề pháp tức là tiêu đề của pháp môn, chi pháp tức là nguồn gốc của đề pháp. Thí dụ: đề pháp “pháp thiện”, chi pháp của pháp thiện là “37 tâm thiện và 38 tâm sở phối hợp tâm thiện” .v.v...

Việc phân định đề pháp và chi pháp được dùng trong a-tỳ-đàm để nêu rõ từng lĩnh vực; ở trong kinh tạng và luật tạng, hai từ nầy được dùng có khác hơn trong A-tỳ-đàm. Thí dụ: đề pháp “pháp hộ trì thế gian (lokapāladhamma)” gồm hai chi pháp là “tàm (hiri) và quý (ottappa)”.v.v...

Như vậy dù thế nào thì ý nghĩa đề pháp và chi pháp vẫn rõ ràng, đề pháp là nói đến khái lược, chi pháp là nói đến chi tiết của khái lược đó.


Chúng con kính cung thỉnh ............ từ bi thuyết giảng Phần IV bài học hôm nay. Namo Buddhaya.

V. Học và hỏi (Sư Tuệ Minh biên soạn câu trả lời)

Hỏi:
Kinh Tạng có thể được luận giải bằng A tỳ đàm vậy Luật tạng thì sao ?

Ðáp:
Giáo Pháp ban đầu Phật dạy chỉ kể là Kinh và Luật, trải qua thời gian các Ngài A Sà Lê đã sắp xếp ra làm 3 Tạng là Kinh, Luật và Luận. Giáo lý Đức Phật đều dựa vào tác ý để tu tập, ngăn trừ, phân tích.

A Tỳ Đàm là phân tích chi li từng sát na diễn biến của tâm. Như khi phạm 1 điều Luật thì dựa vào tâm lý lúc đó ra sao mà định tội và có hành phạt tương ứng.

Những gì mà Đức Phật dạy đều liên quan mật thiết với nhau, có thể lấy A Tỳ Đàm luận giải kinh, luật giải luận vì kim ngôn của Phật luôn toàn hảo đoạn đầu, đoạn giữa và đoạn cuối.


Chúng con kính cung thỉnh ............ từ bi thuyết giảng Phần V bài học hôm nay. Namo Buddhaya.


VI. Đố Vui (TT Tuệ Siêu soạn câu đố)

1. Trong những pháp nhị đề dưới đây pháp nào thuộc về pháp thiện:

a. Tàm và quý.
b. Danh và sắc.
c. Minh và giải thoát.
d. Hiệp thế và siêu thế.

2. Chỉ và quán là pháp nào trong bốn phạm trù dưới đây:

a. Pháp cần liễu tri.
b. Pháp cần đoạn trừ.
c. Pháp cần chứng ngộ.
d. Pháp cần tu tập.

3. Pháp thiền nếu phân thành hai đề pháp thì phân cách nào đúng nhất:

a. Thiền chỉ và thiền quán.
b. Thiền sắc và thiền vô sắc.
c. Thiền hiệp thế và thiền siêu thế.
d. Cả ba đều đúng.


________________________________________

Phần II:
Hồi Hướng này đọc khi kết thúc phần đố vui và giảng sư mời Pt MC lên hoàn mãn buổi học. Giới thiệu bài học hôm sau/ Hồi Hướng (Tri Chúng lên hồi hướng)

Sadhu! Sadhu ! Lành Thay!
Con .......... thay mặt đại chúng trong room, chúng con kính tri ân Chư Tôn Đức đã mở lòng bi mẫn giảng dạy Phật pháp hữu ích cho chúng con , đã hướng dẫn, dìu dắt chúng con tiến bước trên hành trình tu tập hầu mong đem lại an lạc trong đời sống và hướng đến đạo quả giải thoát luân hồi. Nguyện hồi hướng phước báu pháp thí đến Ni Sư Diệu Tịnh được nhiều an lạc, tùy tâm mãn nguyện. Cám ơn đại chúng đã lắng tâm thanh tịnh thính pháp. Kính cám ơn quý chủ nhiệm, Ops, xướng ngôn viên đã yểm trợ cho các phần hành trong lớp học được hoàn tất mỹ mãn. Chúng con kính chúc chư Tôn Đức thân tâm thường lạc, đạo hạnh trang nghiêm, tâm bồ đề viên đắc, Phật đạo chóng viên thành, chúc quý đạo hữu luôn an lạc cát tường trong chánh pháp nhiệm màu của Đức từ phụ Thích Ca Mâu Ni.

Kính Bạch chư Tôn Đức,
Kính thưa quý đạo hữu,

Ngày mai chúng ta sẽ có Lớp Luật Nghi Cư Sĩ do ĐĐ Pháp Đăng đảm trách phần II Nội Dung Chính và chư Tôn Ðức giảng sư trong room Diệu Pháp ở các phần khác, với sự điều hợp chương trình của các OpsMC. Để kết thúc chương trình xin chúng ta nhất tâm hồi hướng.

Nguyện công đức đã làm
Kết duyên lành giải thoát
Nguyện hồi hướng chư thiên
Hàng thiện thần hộ pháp
Nguyện các bậc hữu ân
Ðồng thừa tư công đức
Nguyện chánh pháp trường tồn
Chúng sanh cầu giải thoát
Namo Buddhaya

mở kinh tụng và nhạc, (đóng room)

Kính thưa đại chúng, chương trình sinh hoạt hôm nay đến đây đã kết thúc. Ban điều hành room Diệu Pháp xin phép được đóng room trong vài giây tới. Kính chào tạm biệt tất cả hẹn ngày mai sẽ trở lại trong giờ thường lệ. Namo Buddhaya.

Thứ Năm, 28 tháng 9, 2006

No. 1154 NEW (Hạt Cát dịch)

Thái Lan: Giới trẻ đi bộ để cổ võ giáo pháp

Fri, September 29, 2006

Bangkok -- Khoảng hơn 70 thanh niên từ khắp nơi trong nước Thái Lan đã bắt đầu cho một cuộc đi bộ 24 ngày trên con đường dài 750 km từ tỉnh Surat Thani đến Bangkok để cổ võ cảm thông tôn giáo.

Họ khởi hành từ tu viện Suan Mokkh ngày hôm qua 28 tháng 09 năm 2006, kỷ niệm năm thứ 13 ngày viên tịch của Bhikkhu Buddhadasa. Hành trình của họ sẽ chấm dứt tại Trung tâm Thiền Học Sathira Dhammasathan tại thủ đô.

Cuộc đi bộ với chủ đề "Dhamma Khot Dhamma Yatra"sẽ xuyên qua 9 tỉnh dọc theo duyên hải Vịnh Thái Lan nhằm mục đích truyền bá giáo pháp qua tuổi trẻ, dùng năng lực của thế hệ trẻ để giúp giải quyết những vấn đề xã hội.

Ðây cũng là một phương pháp để cổ võ 3 giải pháp của cố đại lão Budhadasa: am hiểu tôn giáo của mình, am hiểu một tôn giáo khác và tránh xá lợi dưỡng.

Mỗi em trong đoàn người mặc một áo T Shirt mang nhãn hiệu "Dhamma Khot Dhamma Yatra" và mang theo "Dhamma - Kote" loạt tập sách của cố HT về hương vị giáo pháp. Họ chia sẻ những gì họ đã học hỏi với bạn bè.

Ni Sư Sansanee Sthirasuta, người thành lập trung tâm Sathira Dhammasathan nói "Dhamma - Kote" giống như loại sách hướng dẫn, với mỗi trang mà bạn mở ra, bạn sẽ hiểu rõ hơn về tâm thức của bạn. Và ở mỗi nơi chúng ta dừng lại, chúng ta sẽ đem quyển sách ra, chọn lựa một đề tài và chia sẻ với những người khác.

Ni sư nói cuộc bộ hành này cho thấy rằng cố trưởng lão khả kính của chúng ta không chết như một lần Ngài đã từng tuyên bố Buddhadāsa - Phật Nô sẽ không chết.

Lalada Yiengyong, 12 tuổi, trẻ nhất trong nhóm người, từ trường Krungtep Vited Suksa, Bangkok, nói "Tôi tham gia đi bộ với ước mong am hiểu bản thân tôi và những người khác. Tôi ước mong có thể điều chỉnh bản thân bằng cách tập sống chung với người khác".

Hành trình của giới trẻ sẽ đi qua sinh quán và quê nhà của cố HT tại Surat Thani và chùa Tapangjik, nơi Ngài đã cư trú trong gần một thập niên.

Họ sẽ đi qua Chumpon, Prachuap, Khiri Khan, Phetchaburi, Samut Songkhram, Samut Sakhon và Nonthaburi rồi đến Bangkok. Lộ trình trên được hoạch định bởi nhà du hành đường thủy danh tiếng trong nước với chuyến thủy trình bằng xuồng gỗ trong 500 ngày để tầm cầu bình an nội tại. Cuộc bộ hành tâm linh này sẽ hỗ trợ những mục đích trên bằng cách hoan nghênh tất cả mọi người trong các tôn giáo khác và chia sẻ kinh nghiệm tâm thức với mọi người dọc theo hành trình.

Sư Bhavana Phothikun (Ajarn Pho), trụ trì hiện nay của tu viện Suan Mokk, nói "Chiến dịch đi bộ này là một phương cách giúp người ta am hiểu giáo pháp, điều có thể hỗ trợ cho việc giải tỏa những vấn đề trong xã hội của chúng ta và thế giới".

Buổi lễ khai mạc vào sáng hôm qua 28 tháng 09, 2006 có sự tham dự của khoảng 30 chư Tăng ở các ngôi chùa lân cận và 700 học sinh từ tỉnh Surat Thani, kể cả một vài diễn viên truyền hình cũng có mặt.

Cuộc đi bộ là một phần của chương trình kỷ niệm 100 năm sinh nhật của cố HT Buddhadas.

------------------------------------------------------------------------------------------

No. 1155 NEW (Upekha dịch)

Cuộc triển lãm Xá Lợi Răng của Đức Phật

tìm được tại Kapilawasthu thuộc Ấn Độ


Rasika Somarathna

COMLOMBO, Sept 29, 2006 -- Không bao lâu nữa Phật Tử Tích Lan sẽ có cơ hội chiêm bái Xá Lợi Răng của Đức Phật đã tìm được tại Kapilawasthupura, Ấn Độ khi triển lãm Xá Lợi Răng được tổ chức từ 9-15 tháng 10 tại nhiều quận hạt Kalutara, Galle, Matara, Gampaha, Kegalle và Kurunegala diễn ra.

Cuộc triển lãm được tổ chức bởi Bộ Trưởng Văn Hóa và khu vực Di Sản Quốc Gia qua sự cộng tác với Hội Đồng Ủy Ban Tối Cao Ấn Độ tại Sri Lanka.

Văn Phòng Tống Thống đã chỉ định một ủy ban đặc biệt nhằm kết hợp sự kiện quan trọng. Thêm vào Bộ Nghệ Thuật, Bộ Ngoại Giao, Bộ Quốc Phòng và thích ứng Hội Đồng Đương Cục Tỉnh Lỵ sẽ giữ nhiệm vụ cộng tác với Bộ Văn hóa và Di Sản Quốc Gia nhằm làm cho sự kiện được thành công tốt đẹp.


Nhật Hành

Ngày: 28 tháng 09 năm 2006

Tri chúng: Như Khanh

Tri chúng điền khuyết: Chanh Hanh

Môn học: Thiền Học

Bài học: Niệm Từ Phạm Trú (tt)

Giảng Sư Chính: TT Giác Đẳng

Giảng Sư Điền khuyết: TT Tuệ Siêu

Vị Tăng hoặc Ni nói lời cầu nguyện đầu lớp học: ĐĐ Minh Hạnh

Xướng ngôn viên: TC đk, Sangkhaly, Nguon Đuc Hanh, Hat Cat, Nhu Phuc, Upekha, Karuna, Anitya, Tinh Tan, Bich Thu, Minh Chau54 (Tinh Tan xin miễn đọc tin tức trừ khi bài của TT, vì phải thâu TBK)
http://www.phapluan.net &
http://bandieuhanh.blogspot.com

Người mở room: Hat Cat, Tinh Tan

Người mở nhạc và kinh tụng: Hat Cat, Tinh Tan, Anitya, Bich Thu.

Người hoán chuyển bài cho Room: Bich Thu - Nhu Phuc (đk)

Người post bài cho Room: Bich Thu, Tinh Tan, Nguon Duc Hanh, Hat Cat, Upekha.

Người post và gửi bài riêng cho chư Tăng: Upekha, Nguon Duc Hanh.

Trực room (op): TC đk, Ops.

Thông báo (nếu có): Minh Chau54 xin nghỉ phép thứ năm 28/09 đến hết thứ năm 05/10.
Bài Đọc ngày thứ 5 của MC

Phần I
Lễ Tam Bảo, Phần này đọc sau khi dứt kinh tụng


Namo Buddhaya
MC1: Con ............. (................ điền khuyết) thành kính đảnh lễ Chư Tôn Ðức Tăng Ni, thân chào tất cả quí vị hiện diện. Hôm nay ngày 28 tháng 09 năm 2006 Phật lịch 2550. Ðây là chương trình Phật Học trực tiếp thực hiện trên Paltalk mỗi ngày, giờ VN nhằm 7:30 đến 10:00 tối, giờ Houston 7:30 đến 10:00 sáng, giờ NY từ 8:30 đến 11:00 sáng, giờ Cali 5:30 đến 08:00 sáng, giờ Paris 2:30 đến 5:00 chiều, giờ Sydney 11:30 tối đến 2:00 sáng.

Kính thưa quý vị hôm nay là Lớp Thiền Học chúng ta sẽ học bài Niệm Từ Phạm Trú (tt) do TT Giác Đẳng giảng giải phần II nội dung chính. Chúng ta sẽ được nghe chư Tôn Ðức giảng giải các phần khác trong bài học, chương trình tiếp tục với các câu đố và kết thúc với bản tin Phật Giáo.

Mở đầu chương trình xin tất cả chúng ta trang nghiêm tam nghiệp đảnh lễ Tam Bảo.

Chúng con xin kính thỉnh Đại Đức Minh Hạnh đọc kinh Lễ Tam Bảo hôm nay. Namo Buddhaya

(Đại Đức Minh Hạnh)

Nhất tâm đảnh lễ Ðức Như Lai bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Ðiều Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

Nhất tâm đảnh lễ Chánh Pháp do Phật thiện thuyết, thiết thực hiện tiền, vượt ngoài thời gian, đến để chứng nghiệm, hiệu năng hướng thượng, trí giả thân chứng.

Nhất tâm đảnh lễ Chư Tăng đệ tử Thế Tôn bậc diệu hạnh, trực hạnh, như lý hạnh, chân chánh hạnh, gồm bốn đôi tám vị, đáng nhận lễ phẩm, tặng phẩm, tế phẩm, kính lễ, là phước điền vô thượng trong đời.

Nguyện cầu uy đức Phật Bảo
Nguyện cầu uy đức Pháp Bảo
Nguyện cầu uy đức Tăng Bảo
Xin Tam Bảo gia hộ
Ngăn ngừa mọi tai ương
Những hiện tượng bất tường
Những mộng mị xấu xa
Những nghịch duyên trở ngại
Thảy đều mau tan biến
Nguyện muôn loài chúng sanh
Người khổ xin hết khổ
Người sợ hết sợ hãi
Người sầu hết sầu bi
Biết cho với niềm tin
Biết hộ trì giới hạnh
Biết lạc trú trong thiền
Chư thiên đã vân tập
Xin tùy hỷ phước lành
Ðược cát tường như ý
Rồi phản hồi thiên xứ
Chư Toàn Giác đại lực
Chư Ðộc Giác đại lực
Thinh Văn Giác đại lực
Nguyện tổng trì uy đức
Cầu phúc lành phát sanh (lạy)
*****************************
___________________________________________________

(MC1 của phần I: ............... (.............. điền khuyết) )

Kính tri ân Sư Minh Hạnh.
Kính bạch chư tôn đức
Kính thưa đại chúng

Bài Học hôm nay:
Niệm Từ Phạm Trú (tt)

(Thanh Tịnh Đạo bản Việt dịch của Ni Sư Trí Hải)
____________

I. Đại lược (TT Giác Đẳng biên soạn)

Hỏi: Xin cho biết đại lược về bài học.

Ðáp: Hiềm hận là một độc tố. Người tu tập từ tâm cần biết nhiều cách chế ngự hiềm hận. Có nhiều cách để tha thứ cho những người thù nghịch. Tất cả những phương cách nầy đều nằm trong pháp yoniso manasikāra - khéo suy nghĩ hay như lý tác ý. Những đề nghị nầy không hẳn có sức thuyết phục hoàn toàn nhưng nếu bạn thử áp dụng không chừng là phương linh dược. Nên nhớ rằng điều quan trọng đối với hành giả tu tập từ tâm là làm tan cơn giận chứ không phải là làm cho "hả giận".

Chúng con kính cung thỉnh ............ từ bi thuyết giảng Phần I bài học hôm nay. Namo Buddhaya.

II. Nội dung chính (bản dịch NS Thích Nữ Trí Hải)

Hỏi: Xin đơn cử những điểm chính của bài học hôm nay


Ðáp: A.
Chiêm nghiệm gương lành của Đức Thế Tôn.

25. Nhưng nếu hiềm hận vẫn không nguôi trong hành giả, khi quán xét như trên, thì khi ấy nên quán những đức tính đặc biệt của Thế Tôn ngày xưa, trong lối hành xử của Ngài ... Cách quán như sau. Ngươi nay đã xuất gia há lại không nhớ rằng: Bậc đạo sư của ngươi khi còn là Bồ Tát, hành những hạnh ba-la-mật suốt bốn vô số kiếp và một trăm ngàn tiểu kiếp, Ngài đã không để cho sân làm ô nhiễm tâm, dù cho kẻ thù nhiều dịp cố hại mạng Ngài ?

B. Thử xét: khó có ai trước chưa từng là quyến thuộc.

26. Nhưng, nếu nghĩ những đức đặc biệt của Thế Tôn mà hiềm hận vẫn không lắng dịu, vì từ lâu vị ấy đã quen nô lệ cho phiền não, thì vị ấy nên đọc lại những kinh đề cập đến vòng sinh tử tiếp nối vô tận như "Này các tỷ kheo, không dễ gì tìm thấy một chúng sinh nào chưa từng là mẹ ngươi ... cha ngươi ... anh ngươi ... chị ngươi ... con trai ngươi ... con gái ngươi!" (S.ii,189). Bởi thế, hành giả nên nghĩ về người kia như sau: "Cái người này, khi còn làm mẹ ta, trong quá khứ đã từng cưu mang ta suốt mười tháng trong bụng, và tay rửa những phân, tiêu, sài, đẹn của ta không chút nhờm gớm, nâng niu ta trên gối, nuôi nấng ta, ẵm bồng ta bên nách. Và người này khi làm cha ta trong quá khứ, đã đi những con đường của bò dê đi, những con đường gập ghềnh hiểm trở để làm nghề lái buôn, vì ta mà liều mạng trong chiến trường, trên những con tàu lênh đênh ngoài biển khơi, và làm những việc gian nan khác. Người ấy đã kiếm tiền bằng đủ mọi cách để nuôi ta. Và người này, khi làm anh ta chị ta, con trai ta, con gái ta trong quá khứ, đã từng giúp đỡ ta. Bởi thế, thật không xứng đáng nếu ta ôm lòng thù hận người ấy.


C. Giận người làm tổn đức, tổn phước mình thì nên giận không ?

27. Nhưng nếu hành giả vẫn không dập tắt được hiềm hận bằng cách trên đây, thì nên xét đến những lợi ích của từ tâm như sau: "Này ngươi, kẻ đã xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình, há không phải đức Thế Tôn đạo sư đã dạy rằng: "Này các tỷ kheo, khi từ tâm giải thoát được tu tập, được làm cho sung mãn, được làm thành bánh xe, nền tảng, được an trú, được củng cố, và được tu tập thích đáng, thì sẽ có được mười một lợi ích. Ðó là những gì ? Người ấy ngủ trong an ổn, thức trong an ổn, không chiêm bao ác mộng, người ấy được người khác yêu mến, được phi nhân yêu mến, chư thiên hộ trì; lửa, khí giới và độc chất không làm hại được; tâm người ấy dễ định; nét mặt khinh an; người ấy chết tâm không rối loạn, và nếu không đắc quả gì cao thì vị ấy sẽ tái sinh vào Phạm thiên giới (A.v, 342). Nếu ngươi không chấm dứt những tư tưởng hiềm hận này, thì ngươi sẽ không được những lợi lạc ấy.

D. Họ là ai ? mình là gì ?

28. Nhưng nếu bằng cách đó, hành giả cũng không thể hết tức giận, thì hãy phân tích các yếu tố. Như thế nào ? (Vị ấy nghĩ): Ngươi, kẻ đã xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình kia, khi ngươi tức giận kẻ kia, thì cái gì nơi kẻ ấy làm ngươi tức giận ? Ngươi giận tóc ? hay lông ? hay móng ... hay nước tiểu. Hoặc, có phải ngươi tức giận địa đại ở trong tóc v.v... hay thủy đại ? hay hỏa đại ? hay phong đại ? ngươi tức giận ? Hay trong số năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới bởi đó vị tôn giả đó được gọi bằng tên đó, cái gì ngươi tức giận ? Ngươi tức giận sắc uẩn, hay thọ uẩn, hay tướng uẩn, hay hành uẩn, hay thức uẩn ? Ngươi tức giận nhãn xứ hay sắc xứ ? ... ý xứ hay pháp xứ ? Ngươi tức giận nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới ? ... ý giới, pháp giới ? hay ý thức giới ngươi tức giận ? Bởi vì khi hành giả cố phân tích thành các yếu tố như vậy, cơn giận của vị ấy không tìm thấy chỗ đặt chân, như một hạt tiêu đặt trên đầu cái mũi dùi hay một bức tranh treo giữa hư không.

E. Một món quà tặng cho người mình ghét ?

29. Nhưng nếu hành giả không phân tích được như trên, thì nên cố tặng một món quà. Món quà có thể hoặc là do hành giả tặng người kia, hay do hành giả nhận từ người kia. Nhưng nếu người ấy có mạng sống không thanh tịnh, và những vật dụng của vị ấy không đáng dùng, thì món quà nên do hành giả tặng. Và khi một người làm như thế, hiềm hận ở trong nó hoàn toàn lắng xuống. Và ở trong nơi người kia, dù đã kết oan gia từ một đời trước, lúc ấy oán giận cũng tiêu. Như trường hợp xảy đến cho vị trưởng lão nhận một cái bát từ nơi vị thượng tọa ăn đồ khất thực ở tu viện Cittapabbata, vị này đã ba lần khiến trưởng lão phải rời khỏi trú xứ, bây giờ tặng trưởng lão cái bát với những lời: "Bạch đại đức, cái bát này đáng giá tám đồng ducats, là do mẹ tôi cho tôi, bà là một tín nữ, và cái bát này kiếm được bằng phương tiện hợp pháp. Mong cho bà tín nữ ấy được phước đức. "Như vậy, hành vi bố thí thật là có hiệu quả lớn. Và điều này đã được nói:

"Một món quà điều phục kẻ chưa điều phục
Một tặng phẩm có đủ thứ tốt lành
Nhờ cho tặng phẩm mà người ta bớt gay cấn
Và chịu hạ cố mà nói những lời tử tế."
(Sự phá vỡ rào ngăn - Tướng)


Chúng con kính cung thỉnh ............ từ bi thuyết giảng Phần II bài học hôm nay. Namo Buddhaya.

III. Người Xưa Chốn Cũ (NS Liễu Pháp biên soạn)

Hỏi: Tôn giả Mahā Kaccāna là ai ? Cho biết một vài chi tiết về Avanti ?

Đáp:
Tôn giả Mahā Kaccāna là một trong những vị đại đệ tử của Đức Phật, được Đức Phật khen là tối thắng trong việc thuyết giảng rộng rãi những điều được nói lên một cách vắn tắt. Tôn giả người xứ Ujjenī, và được gọi là Kaccāna vì có nước da sáng như vàng ròng, và đó cũng là dòng họ của ngài. Ngài thông hiểu kinh điển Vệ đà, và nối nghiệp cha làm quan tế lễ của vua Candappajjota. Theo lệnh nhà vua, ngài cùng 7 người khác đến thăm Đức Phật và thỉnh Đức Thế Tôn đến Ujjenī. Ngài nghe Đức Phật thuyết pháp, chứng đắc A-la-hán, và xuất gia. Khi Tôn giả chuyển lời thỉnh mời của nhà vua đến Đức Phật, Đức Phật bảo rằng chỉ cần Tôn giả trở về Ujjenī thuyết pháp cũng đủ rồi. Tôn giả vâng lời Đức Phật trở về quê hương. Về đến nơi, ngài nhiệt tâm thuyết pháp cho dân chúng và nhiều người đã xuất gia dưới sự hướng dẫn của ngài.Trong một số bài kinh, Đức Phật chỉ thuyết một cách vắn tắt, và người nghe đến gặp Tôn giả Mahā Kaccāna yêu cầu ngài giảng giải một cách rộng rãi và chi tiết. Những lời giảng của ngài đều được Đức Phật xác chứng và khen ngợi. Bộ Nettippakarana và bộ Petakopadesa được coi là tác phẩm của ngài, hay ít nhất là của một truyền thống bắt nguồn từ Tôn giả Mahā Kaccāna.

Avanti là một trong 4 vương quốc hùng mạnh thời Đức Phật, 3 vương quốc kia là Magadha, Kosala và Vaṃsa. Thủ đô của Avanti là Ujjenī. Vào thời Đức Phật, vị vua trị vì Avanti là Pajjota, một người có tính khí nóng nảy, vì vậy được gọi là Caṇḍa Pajjota. Khi nghe danh Đức Phật, nhà vua phái Kaccāna và phái đoàn đến thỉnh ngài về Avanti. Sau đó thì Tôn giả Mahā Kaccāna đã quy hướng nhà vua về với Phật giáo. Tuy vậy Phật giáo không phát triển mạnh ở Avanti, vì ngài Mahā Kaccāna phải chờ 3 năm mới tìm đủ số 10 vị tỷ kheo để làm lễ xuất gia tỳ kheo cho Soṇa Kuṭikaṇṇa. Sau này, khi Soṇa viếng thăm Đức Phật ở Sāvatthi, đã xin Đức Phật 5 điều liến quan đến giới luật để tiện cho việc hành đạo của các tỳ kheo ở Avanti và các vùng hẻo lánh, trong đó có việc cho phép làm lễ xuất gia tỳ kheo với 5 vị tỳ kheo, trong đó có một vị tinh thông về Luật.

Vào kỳ kết tập Tam Tạng lần thứ hai ở Vesali, Avanti đã trở thành một trung tâm của Phật giáo chính thống, và đã cử 88 vị A-la-hán tham dự kỳ kết tập.


Chúng con kính cung thỉnh ............ từ bi thuyết giảng Phần III bài học hôm nay. Namo Buddhaya.

IV. Chữ và nghĩa (TT Tuệ Siêu biên soạn câu trả lời)

Hỏi: Người đời thường nói chữ phước đức. Từ phước dùng nhiều trong kinh Phật còn từ "đức" thì sao ? Thí dụ có từ nào trong tiếng Phạn để dịch chữ "đức" trong câu "sống để đức cho con" ?

Ðáp:
Trong kinh điển pālī khi nói đến phước đức, chỉ là nói theo lý của phước được tạo bằng giới hạnh “sīlamayapuññakiriyāvatthu”; tức là phước sẽ thành tựu sự may mắn thuận duyên trong cuộc sống ...

Nếu bàn về chữ đức trong chữ đức hạnh, đức độ, ân đức thì có từ pālī như là guṇa, guṇadhamma, guṇātireka, sadācāra ... riêng về chữ đức trong phước đức hay trong câu “để đức cho con cháu” thì không có chữ Pālī dùng cho từ nầy, mà chỉ nói chung là phước (puñña). Vả chăng từ ngữ “có đức, để đức” đều là ám chỉ đức độ, đức hạnh ? hoặc xài theo cách nói của dân gian mà thôi ?


Chúng con kính cung thỉnh ............ từ bi thuyết giảng Phần IV bài học hôm nay. Namo Buddhaya.

V. Học và hỏi (Sư Tuệ Minh biên soạn câu trả lời)

Hỏi:
Bao dung cho người ác quấy có phải là gián tiếp khuyến khích họ tiếp tục sai lầm ?

Ðáp:
Bao dung ở đây được hiểu theo 2 ý nghĩa, 1 nghĩa tích cực và 1 nghĩa tiêu cực.

1 người bao che đối với người làm điều ác rồi sau đó khuyến khích họ tiếp tục làm điều bất thiện, đây là cách bao dung tiêu cực vì cách bao dung đó không giúp chúng sanh hướng thiện.

Đối với 1 người bao dung người làm ác để từ đó giúp họ tránh những sai lầm, hướng họ làm điều tốt như Đức Phật đã bao dung cho kẻ giết người khét tiếng Angulimāla, kỷ nữ lừng danh Ambapāli, để cuối cùng đã giúp họ "cải tà quy chánh" trở thành bậc thánh nhân.

Cho nên bao dung có làm cho người ác phạm sai lầm tiếp hay ngăn họ không phạm sai lầm giúp họ hướng thiện là do chủ ý của người chở che bảo bọc.


Chúng con kính cung thỉnh ............ từ bi thuyết giảng Phần V bài học hôm nay. Namo Buddhaya.


VI. Đố Vui (TT Giác Đẳng biên soạn)

1. Chúng ta tuy biết mọi việc rồi sẽ qua nhưng vẫn giận với điều trái ý trong hiện tại. Điều đó bởi vì:

a. Thói tật nhiều đời.
b. Phiền não chưa đoạn.
c. Trí giác chưa đủ.
d. Cả ba điều trên.

2. Nếu nói rằng "khó có ai chưa từng là quyến thuộc của mình trong nhiều đời quá khứ" vậy thái độ nào dưới đây là hợp lý nhất:

a. Phải kính trọng tất cả.
b. Đối với tất cả bằng từ tâm.
c. Thân thiết với tất cả bằng tình quyến thuộc.
d. Xã thân đền đáp cho tất cả.

3. Chuyện xưa kể rằng có một con rắn thuần tính sống quấn quít hằng ngày với vị đạo sĩ. Ngày kia rắn trong lúc ra ngoài gặp phải bà lão đi nhặt củi. Vì mắt mờ bà cụ tưởng rắn là sợi dây nên dùng để quấn bó củi. Con rắn cuối cùng cũng tìm được cách thoát thân. Trở về gặp đạo sĩ, con rắn hiền lành kể lại tự sự. Vị thầy khuyên rằng: Sau nầy gặp trường hợp như vậy thì con nên "khè" thì tốt hơn.

Vị đạo sĩ muốn khuyên con rắn điều gì:

a. Không nên hiền lành mà mang họa.
b. Nên cho người khác biết "oai phong của mình".
c. Hiền thì hiền nhưng cũng không nên khiến lụy mình lụy người.
d. Không nên giúp người khác một cách gián tiếp.


________________________________________

Phần II:
Hồi Hướng này đọc khi kết thúc phần đố vui và giảng sư mời Pt MC lên hoàn mãn buổi học. Giới thiệu bài học hôm sau/ Hồi Hướng (Tri Chúng lên hồi hướng)

Sadhu! Sadhu ! Lành Thay!
Con .......... thay mặt đại chúng trong room, chúng con kính tri ân Chư Tôn Đức đã mở lòng bi mẫn giảng dạy Phật pháp hữu ích cho chúng con , đã hướng dẫn, dìu dắt chúng con tiến bước trên hành trình tu tập hầu mong đem lại an lạc trong đời sống và hướng đến đạo quả giải thoát luân hồi. Nguyện hồi hướng phước báu pháp thí đến Ni Sư Diệu Tịnh được nhiều an lạc, tùy tâm mãn nguyện. Cám ơn đại chúng đã lắng tâm thanh tịnh thính pháp. Kính cám ơn quý chủ nhiệm, Ops, xướng ngôn viên đã yểm trợ cho các phần hành trong lớp học được hoàn tất mỹ mãn. Chúng con kính chúc chư Tôn Đức thân tâm thường lạc, đạo hạnh trang nghiêm, tâm bồ đề viên đắc, Phật đạo chóng viên thành, chúc quý đạo hữu luôn an lạc cát tường trong chánh pháp nhiệm màu của Đức từ phụ Thích Ca Mâu Ni.

Kính Bạch chư Tôn Đức,
Kính thưa quý đạo hữu,

Ngày mai chúng ta sẽ có Lớp A Tỳ Đàm do TT Tuệ Siêu đảm trách phần II Nội Dung Chính và chư Tôn Ðức giảng sư trong room Diệu Pháp ở các phần khác, với sự điều hợp chương trình của các OpsMC. Để kết thúc chương trình xin chúng ta nhất tâm hồi hướng.

Nguyện công đức đã làm
Kết duyên lành giải thoát
Nguyện hồi hướng chư thiên
Hàng thiện thần hộ pháp
Nguyện các bậc hữu ân
Ðồng thừa tư công đức
Nguyện chánh pháp trường tồn
Chúng sanh cầu giải thoát
Namo Buddhaya

mở kinh tụng và nhạc, (đóng room)

Kính thưa đại chúng, chương trình sinh hoạt hôm nay đến đây đã kết thúc. Ban điều hành room Diệu Pháp xin phép được đóng room trong vài giây tới. Kính chào tạm biệt tất cả hẹn ngày mai sẽ trở lại trong giờ thường lệ. Namo Buddhaya.

Thứ Tư, 27 tháng 9, 2006

No. 1144 NEW (Upekha dịch)

Nhật Bản: Lần đầu tiên thánh tích Phật Giáo

950 năm tuổi được trưng bày

The Yomiuri Shimbun.(Sep. 23, 2006)

Kyoto - Japan -- Một bức màn trướng thường được dùng bao phủ pho tượng Phật 950 tuổi được ra mắt quần chúng lần đầu tiên .

Pho tượng Amidanyorai được đặt tại Phụng Hoàng Ðường (鳳凰堂 hōō-dō), trong khung viên ngôi chùa Byōdō-in (平等院)Bình Ðẳng Viện tại thành phố Vũ Trị (Uji), Quận hạt Kinh Ðô (Kyoto) , và màn trướng được mệnh danh như vật quý giá quốc gia tại ngôi chùa, một Khu Vực Di Sản Thế Giới .

Màn trướng, hoàn thành năm 1053, được lấy xuống từ một trần nhà nhằm tu bổ cho hoàn chỉnh hơn, đây là một công trình sửa chữa lần đầu tiên bức màn trướng này trong vòng 100 năm nay. Hai mảnh màn trướng gồm có trang trí một phần bông hoa và một kiểu ô,và thông thường treo vào 6 meters bên trên mặt đất bao phủ cả pho tượng. Đó là được xem như màn trướng cổ xưa còn tồn tại trong đất nước.

Một phần kiểu ô vuông, với kích thước 1.3 meters chiều cao , 4.8 m chiều dài và 4.6 m chiều rộng, sẽ được triển lãm cho đến 11 tháng 12 tại Viện Bảo Tàng Byodo, nơi mà khách thăm viếng có thể dễ dàng quan sát nhanh chóng

Monsho Kamii, viện chủ trì của ngôi chùa, nói rằng. “ Đây sẽ là lần đầu và sau cùng của cái hay thuộc triều đại Heian sẽ thấy như gần nhất. Màn trướng được sáng tạo trong hy vọng truyền bá ánh sáng trí tuệ của Đức Phật trải rộng khắp thế giới.

------------------------------------------------------------------------------------------

No. 1153 NEW (Hạt Cát dịch)

Tổng Thống Tích Lan viếng thăm tu viện Houston

Houston, Texas -- Tổng thống Tích Lan Mahinda Rajapaksa trong buổi gặp gỡ tại Houston Buddhist Vihara đã kêu gọi hằng trăm cư dân Texas gốc Tích Lan, những người đã đến chùa để nghênh tiếp ông, rằng họ nên dạy cho con cái tiếng mẹ đẻ, bằng tiếng Sinhala hoặc Tamil phối hợp với Anh Văn để chúng có thể cảm thông với truyền thống, nguồn gốc quốc gia.

Ông nói dạy dỗ chúng bằng tiếng mẹ đẻ có thể làm cho chúng dễ dàng đàm thoại với ông bà, thân nhân và bạn bè của cha mẹ đang còn ở trong nước Tích Lan và giữ gìn sợi giây nhao rốn văn hóa không bị đứt đoạn .

Tổng thống cũng nói thêm rằng trẻ con hấp thu nền giáo dục song ngữ sẽ có nhiều phương tiện để trau giồi trình độ tri thức hơn là trẻ em hấp thụ nền giáo dục đơn ngữ ở bất cứ quốc gia nào.

Tổng Thống Mahinda Rajapakse đến viếng chùa Houston Buddhist Vihara trên đường trở về nước sau chuyến bận rộn viếng thăm Liên HIệp Quốc ở New York. Thị trưởng tại nhiệm thành phố Houston Micheal Berry và người vợ gốc Ấn, bà Nanditha Berry, đã trải thảm đỏ ở phi trường để đón tiếp Tổng Thống.

Trong cuộc gặp gỡ ở chùa Houston Buddhist Vihara, Ông Rajapakse nói là một Phật tử, ông đã thực hành hạnh nhẫn nại đối với phiến quân LTTE trong một thời gian quá lâu khi mỗi ngày họ giết 5 quân nhân. Nhưng khi bọn phiến quân cho người ôm bom tự tử ám sát tướng lãnh quân đội và làm nổ tung xe bus khiến 65 người vô tội bị thiệt mạng thì không có chính phủ nào có thể giữ im lặng được nữa.

Ðại Sứ Tích Lan tại Washington Bernard Goonathikele cũng đã có mặt trong buổi gặp gỡ trên.


Nhật Hành

Ngày: 27 tháng 09 năm 2006

Tri chúng: Hạt Cát

Tri chúng điền khuyết: Minh Chau

Môn học: TRUNG BỘ KINH

Bài học: Bài Đại Kinh Mã Thôn

Giảng Sư Chính: TT Tuệ Siêu

Giảng Sư Điền khuyết: TT Giác Đẳng

Vị Tăng hoặc Ni nói lời cầu nguyện đầu lớp học: ĐĐ Minh Hạnh

Xướng ngôn viên: TC đk, Sangkhaly, Nguon Đuc Hanh, Hat Cat, Nhu Phuc, Upekha, Karuna, Anitya, Tinh Tan, Bich Thu, Minh Chau54 (Tinh Tan xin miễn đọc tin tức trừ khi bài của TT, vì phải thâu TBK)
http://www.phapluan.net &
http://bandieuhanh.blogspot.com

Người mở room: Tinh Tấn, Bich Thu.

Người mở nhạc và kinh tụng: Tinh Tấn, Bich Thu.

Người hoán chuyển bài cho Room: Nhu Phuc - Tinh Tan (đk).

Người post bài cho Room: Nguon Duc Hanh, Tinh Tan, Bich Thu, Upekha.

Người post và gửi bài riêng cho chư Tăng: Upekha, NguonDucHanh.

Trực room (op): TC đk, Upekha, Ops.

Thông báo (nếu có):
Bài Đọc ngày thứ 4 của MC

Phần I
Lễ Tam Bảo, Phần này đọc sau khi dứt kinh tụng


Namo Buddhaya
MC1: Con ............. (................ điền khuyết) thành kính đảnh lễ Chư Tôn Ðức Tăng Ni, thân chào tất cả quí vị hiện diện. Hôm nay ngày 27 tháng 09 năm 2006 Phật lịch 2550. Ðây là chương trình Phật Học trực tiếp thực hiện trên Paltalk mỗi ngày, giờ VN nhằm 7:30 đến 10:00 tối, giờ Houston 7:30 đến 10:00 sáng, giờ NY từ 8:30 đến 11:00 sáng, giờ Cali 5:30 đến 08:00 sáng, giờ Paris 2:30 đến 5:00 chiều, giờ Sydney 11:30 tối đến 2:00 sáng.

Kính thưa quý vị hôm nay là Lớp Trung Bộ Kinh chúng ta sẽ học Bài Đại Kinh Mã Thôn do TT Tuệ Siêu giảng giải phần II nội dung chính. Chúng ta sẽ được nghe chư Tôn Ðức giảng giải các phần khác trong bài học, chương trình tiếp tục với các câu đố và kết thúc với bản tin Phật Giáo.

Mở đầu chương trình xin tất cả chúng ta trang nghiêm tam nghiệp đảnh lễ Tam Bảo.

Chúng con xin kính thỉnh Đại Đức Minh Hạnh đọc kinh Lễ Tam Bảo hôm nay. Namo Buddhaya

(Đại Đức Minh Hạnh)

Nhất tâm đảnh lễ Ðức Như Lai bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Ðiều Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

Nhất tâm đảnh lễ Chánh Pháp do Phật thiện thuyết, thiết thực hiện tiền, vượt ngoài thời gian, đến để chứng nghiệm, hiệu năng hướng thượng, trí giả thân chứng.

Nhất tâm đảnh lễ Chư Tăng đệ tử Thế Tôn bậc diệu hạnh, trực hạnh, như lý hạnh, chân chánh hạnh, gồm bốn đôi tám vị, đáng nhận lễ phẩm, tặng phẩm, tế phẩm, kính lễ, là phước điền vô thượng trong đời.

Nguyện cầu uy đức Phật Bảo
Nguyện cầu uy đức Pháp Bảo
Nguyện cầu uy đức Tăng Bảo
Xin Tam Bảo gia hộ
Ngăn ngừa mọi tai ương
Những hiện tượng bất tường
Những mộng mị xấu xa
Những nghịch duyên trở ngại
Thảy đều mau tan biến
Nguyện muôn loài chúng sanh
Người khổ xin hết khổ
Người sợ hết sợ hãi
Người sầu hết sầu bi
Biết cho với niềm tin
Biết hộ trì giới hạnh
Biết lạc trú trong thiền
Chư thiên đã vân tập
Xin tùy hỷ phước lành
Ðược cát tường như ý
Rồi phản hồi thiên xứ
Chư Toàn Giác đại lực
Chư Ðộc Giác đại lực
Thinh Văn Giác đại lực
Nguyện tổng trì uy đức
Cầu phúc lành phát sanh (lạy)
*****************************
___________________________________________________

(MC1 của phần I: ............... (.............. điền khuyết) )

Kính tri ân Sư Minh Hạnh.
Kính bạch chư tôn đức
Kính thưa đại chúng

Bài Học hôm nay:
Đại Kinh Mã Thôn
____________

I. Đại lược (NS Thích Nữ Trí Hải biên soạn)

Tại ấp có tên "Xóm ngựa" của dân Anga [Ương già], Phật dạy chúng tỳ kheo về các pháp làm nên Sa môn, Bà la môn. Ở đây hai danh từ này phải hiểu như định nghĩa của Phật ở cuối kinh: Sa môn là người đã "dừng lại các ô nhiễm đáng sợ, đem lại khổ quả tái sinh, già chết trong tương lai"; còn Bà la môn là người "đã tắm rửa sạch sẽ tất cả các ác bất thiện pháp, những ô nhiễm đưa đến tái sinh, già chết".

Chúng con kính cung thỉnh ............ từ bi thuyết giảng Phần I bài học hôm nay. Namo Buddhaya.

II. Nội dung chính (NS Thích Nữ Trí Hải biên soạn)

Khi đã tự xưng và được người ta gọi là sa môn, tỳ kheo phải tu tập và thành tựu các sa môn hạnh như sau:

1. Tàm và quý nhưng không khen mình chê người;

2. Thân hành thanh tịnh nhưng không khen mình chê người;

3. Khẩu hành thanh tịnh nhưng không khen mình chê người;

4. Ý hành thanh tịnh nhưng không khen mình chê người;

5. Mạng sống thanh tịnh nhưng không khen mình chê người;

6. Hộ trì các căn nhưng không lấy làm tự mãn;

7. Tiết độ trong ăn uống nhưng không tự mãn;

8. Chú tâm cảnh giác vào mọi lúc, tẩy sạch tâm tư khỏi các chướng ngại nhưng không tự mãn;

9. Chính niệm tỉnh giác trong bốn uy nghi nhưng không tự mãn;

10. Thiền định, gột sạch 5 triền cái tham, sân, hôm trầm, trạo hối, nghi; nhờ vậy tuần tự chứng đắc bốn thiền, ba minh, liễu tri bốn chân lý, thoát khỏi dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu. Vị ấy đã xa lìa các bất thiện đưa đến sinh, già, chết trong tương lai, tuệ tri "Sinh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm xong, sau đời hiện tại không còn đời nào khác.".

Chúng con kính cung thỉnh ............ từ bi thuyết giảng Phần II bài học hôm nay. Namo Buddhaya.

III. Người Xưa Chốn Cũ (NS Liễu Pháp biên soạn)

Hỏi: Tôn giả Kāḷudāyī là ai ? Vương quốc Mallā được ghi lại trong kinh Pālī thế nào ?

Đáp: Kāḷudāyī
là con của một vị đại thần của vua Suddhodana ở thành Kapilavatthu. Ông sinh cùng một ngày với Đức Phật và là bạn thân của ngài khi còn là thái tử. Sau khi Thái tử xuất gia, ông trở thành một vị cận thần tín cẩn của nhà vua. Khi hay tin Đức Phật đang ngự tại thành Rājagaha và đang truyền bá giáo pháp, Vua Suddhodana nóng lòng muốn gặp người con trí tuệ. Chín lần liên tiếp, đức vua truyền lệnh cho chín vị sứ thần đến triệu thỉnh Đức Phật về Kapilavatthu. Trái ngược với lòng ước mong chờ đợi của vua, khi gặp được Đức Phật, tất cả chín vị sứ thần đều lấy làm thỏa thích, ở lại nghe Pháp, xin xuất gia, và đắc Quả A La Hán. Khi đã đắc Quả A La Hán các Ngài không còn thiết tha đến việc trần gian nên không nghĩ đến sứ mạng là thỉnh Đức Phật về. Đức vua lấy làm thất vọng. Sau cùng, Ngài truyền lệnh cho Kāḷudāyī, đi thỉnh Đức Phật. Kāḷudāyī phụng mạng nhưng xin một điều là cho phép ông xuất gia theo Phật. Như các vị sứ thần trước, Kāḷudāyī cũng được diễm phúc nghe Đức Phật thuyết giảng Giáo Pháp, đắc Quả A La Hán và xin xuất gia. Nhưng khác với các vị kia là ông không quên sứ mạng. Ông thiết tha khẩn cầu Đức Phật về thăm phụ hoàng, nay đã già yếu. Đức Phật nhận lời và lên đường trở về quê nhà với rất đông đệ tử. Kāḷudāyī được Đức Phật khen là tối thắng làm cho các gia đình hoan hỷ (kulappasādakānaṃ aggo).

Mallā là tên của một bộ tộc và cũng là tên của một trong 16 nước thời Đức Phật. Vào thời đó, xứ này chia thành hai miền, có hai thủ đô khác nhau là Pāvā và Kusinārā. Người Mallā ở xứ Pāvā gọi là Pāveỳaka Mallā, và người Mallā ở Kusinārā gọi là Kosinārakā. Khi Đức Phật nhập diệt, thì người Mallā xứ Pāvā có gởi sứ giả đến Kusināra để xin thỉnh xá lợi. Khi Đức Phật dừng lại ở Pāvā trước khi đến Kusinārā để nhập diệt, ngài thọ trai ở nhà thợ rèn Cunda, và ở lại giảng đường Ubbhaṭaka vừa mới được người Mallā xây để cúng dường ngài và chư Tăng. Khi ngài Ānanda đến báo cho những người Mallā ở Kusinārā là Đức Phật đang ở rừng Sala và sắp nhập diệt, dân chúng kéo đến rất đông để đảnh lễ Ngài. Sau khi Đức Phật nhập diệt, họ dùng nghi thức dành cho một vị Chuyển Luân thánh vương để làm lễ trà tì cho Đức Phật. Người Mallā ở cả hai xứ Pāvā và Kusinārā đền nhận được xá lợi Phật và đều xây tháp để thờ.

Chúng con kính cung thỉnh ............ từ bi thuyết giảng Phần III bài học hôm nay. Namo Buddhaya.

IV. Chữ và nghĩa (TT Tuệ Siêu biên soạn câu trả lời)

Hỏi: Tại sao gọi là tự tán hủy tha ? từ nầy có đồng nghĩa với kiêu mạn không ?

Ðáp:
Câu nói “tự tán hủy tha” (khen mình chê người), nghĩa là một người tự đề cao mình và khinh thường chê bai người khác. Đây là một thái độ của lòng kiêu mạn; lòng kiêu mạn tác động dẫn đến thái độ tự tán hủy tha. Kiêu mạn là sự ngã mạn, sự ngã mạn thể hiện dưới nhiều hình thức như là lời nói, cử chỉ, tư tưởng. Tự tán hủy tha là hình thức biểu hiện thái độ ngã mạn qua lời nói.

Như vậy, tự tán hủy tha với kiêu mạn, không đồng nghĩa nhưng có liên quan với nhau như là chứng bệnh và mầm bệnh, lòng kiêu mạn là mầm bệnh làm phát sinh chứng bệnh tự tán hủy tha.


Chúng con kính cung thỉnh ............ từ bi thuyết giảng Phần IV bài học hôm nay. Namo Buddhaya.

V. Học và hỏi (Sư Tuệ Minh biên soạn câu trả lời)

Hỏi: Nếu một người nhiều lòng tàm quý luôn luôn sợ phạm điều lỗi lầm thì có phải tự tạo cho mình nỗi bất an thường xuyên ?

Ðáp:
Tàm (hiri) là hổ thẹn với điều tội lỗi, hổ thẹn với các bất thiện pháp.

Quý (Ottappa) là kinh sợ với điều ác, sợ hậu quả của điều ác và sợ người khác khiển trách về các điều ác của mình làm.

Pháp môn của Phật phải tu tập thuần thục tạo thành thường cận. Khi có cảnh đến là dùng pháp môn tu tập đối kháng lại.

Một người khi có tàm quý là luôn hổ thẹn và ghê sợ, đối với các việc bất thiện. Không phải lúc nào cũng mang tâm trạng là sợ và hổ thẹn với các việc bất thiện, mà là tu tập để đối kháng lại khi cảnh đến.

Cho nên đối với nội tâm bất an là do không tự điều phục. Đức Phật dạy tự điều phục thân tâm phải như người khéo làm tên, người khéo dẫn nước.


Chúng con kính cung thỉnh ............ từ bi thuyết giảng Phần V bài học hôm nay. Namo Buddhaya.


VI. Đố Vui (TT Tuệ Siêu biên soạn)

1. Tiếng gọi sa môn được dùng để chỉ cho hạng người nào dưới đây ?

a. Đức Phật, như người ta gọi sa môn Cồ Đàm.
b. Người có đời sống khác biệt với thế tục.
c. Người sống theo tịnh pháp xuất gia.
d. Câu b và c đúng.

2. Danh từ sa môn được dùng trong thời kỳ nào ?

a. Trước khi Đức Phật xuất hiện.
b. Sau khi Đức Phật xuất hiện.
c. Sau khi Đức Phật viên tịch.
d. Cả ba câu đều sai.

3. Phải chăng danh từ sa môn đồng nghĩa với danh từ tỷ kheo ?

a. Đúng, vì Đức Phật dạy cho các tỷ kheo.
b. Sai, vì xã hội bấy giờ người ta vẫn gọi hội chúng sa môn, bà la môn.
c. Tùy theo nghĩa dùng mà đúng hoặc sai.
d. Gồm cả ba câu trên.

________________________________________

Phần II:
Hồi Hướng này đọc khi kết thúc phần đố vui và giảng sư mời Pt MC lên hoàn mãn buổi học. Giới thiệu bài học hôm sau/ Hồi Hướng (Tri Chúng lên hồi hướng)

Sadhu! Sadhu ! Lành Thay!
Con .......... thay mặt đại chúng trong room, chúng con kính tri ân Chư Tôn Đức đã mở lòng bi mẫn giảng dạy Phật pháp hữu ích cho chúng con , đã hướng dẫn, dìu dắt chúng con tiến bước trên hành trình tu tập hầu mong đem lại an lạc trong đời sống và hướng đến đạo quả giải thoát luân hồi. Nguyện hồi hướng phước báu pháp thí đến Ni Sư Diệu Tịnh được nhiều an lạc, tùy tâm mãn nguyện. Cám ơn đại chúng đã lắng tâm thanh tịnh thính pháp. Kính cám ơn quý chủ nhiệm, Ops, xướng ngôn viên đã yểm trợ cho các phần hành trong lớp học được hoàn tất mỹ mãn. Chúng con kính chúc chư Tôn Đức thân tâm thường lạc, đạo hạnh trang nghiêm, tâm bồ đề viên đắc, Phật đạo chóng viên thành, chúc quý đạo hữu luôn an lạc cát tường trong chánh pháp nhiệm màu của Đức từ phụ Thích Ca Mâu Ni.

Kính Bạch chư Tôn Đức,
Kính thưa quý đạo hữu,

Ngày mai chúng ta sẽ có Lớp Thiền Học do TT Giác Đẳng đảm trách phần II Nội Dung Chính và chư Tôn Ðức giảng sư trong room Diệu Pháp ở các phần khác, với sự điều hợp chương trình của các OpsMC. Để kết thúc chương trình xin chúng ta nhất tâm hồi hướng.

Nguyện công đức đã làm
Kết duyên lành giải thoát
Nguyện hồi hướng chư thiên
Hàng thiện thần hộ pháp
Nguyện các bậc hữu ân
Ðồng thừa tư công đức
Nguyện chánh pháp trường tồn
Chúng sanh cầu giải thoát
Namo Buddhaya

mở kinh tụng và nhạc, (đóng room)

Kính thưa đại chúng, chương trình sinh hoạt hôm nay đến đây đã kết thúc. Ban điều hành room Diệu Pháp xin phép được đóng room trong vài giây tới. Kính chào tạm biệt tất cả hẹn ngày mai sẽ trở lại trong giờ thường lệ. Namo Buddhaya.