Lớp Thiền Học
THANH TỊNH ÐẠO LUẬN TOÁT YẾU
(Trích dẫn tài liệu do TT Thích Phước Sơn biên soạn)
PHẦN THỨ HAI - ÐỊNH (tiếp theo)
--ooOoo--
CHƯƠNG IV
ÐỊNH - PHÂN TÍCH ÐỀ MỤC ĐẤT
(Pathavī - kasina - niddesa)
SƠ THIỀN
Giảng Sư: TT Giác Đẳng
I. Toát Yếu: Những điểm chính
Sơ thiền là tầng thiền thứ nhất hành giả chứng và trú được sau khi đắc định do hoàn toàn ly dục, ly bất thiện pháp, có tầm, có tứ, với hỉ lạc do ly dục sinh; từ bỏ 5 pháp, đạt được 5 pháp, tốt đẹp ở 3 phương diện, có 10 đặc tính, và Sơ thiền nầy thuộc biên xứ đất.
II. Nội dung chính
Ðến đây, hành giả hoàn toàn ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú Sơ thiền, có tầm, có tứ, với hỉ lạc do ly dục sinh; từ bỏ 5 pháp, đạt được 5 pháp, tốt đẹp ở 3 phương diện, có 10 đặc tính, và Sơ thiền nầy thuộc biên xứ đất.
Hoàn toàn ly dục nghĩa là thoát khỏi mọi dục vọng, vì dục là cái đối nghịch với so thiền. Nếu có dục thì không thể đắc Sơ thiền, cũng như có tối thì không có sáng. Danh từ "dục" bao gồm nhiều thứ; Ðó là dục kể như đối tượng, tức là những sắc pháp dễ ưa thích, và dục kể như cấu uế như vibhanga nói: "Ðam mê là dục, thèm muốn là dục, khát khao là dục".
Ly bất thiện pháp là xa lìa các triền cái khác ngoài dục. Như vậy, ly dục là từ bỏ cái nhân của tham, còn ly bất thiện pháp là từ bỏ cái nhân của si. Ly dục là thanh tịnh thân nghiệp, ly bất thiện pháp là thanh tịnh ý nghiệp. Nói cách khác, ly dục tức là thân viễn ly còn ly bất thiện pháp tức là tâm viễn ly.
Ở đây, cũng nên hiểu thêm về ý nghĩa của dục. Chữ dục thường dùng để dịch các từ chanda, kāma vā rāga. Chanda rất thông dụng, có nghĩa là hăng say, ham muốn tốt hoặc xấu. Kāma chỉ chung ngũ dục thuộc dục giới, còn theo nghĩa hẹp là dâm dục. Nếu kāma kết hợp với chanda thì thành ra kāmacchanda nghĩa là dục tham. Rāga là ham muốn, thèm khát theo ý xấu.
Ở trên nói đạt được năm pháp tức chỉ cho 5 thiền chi là tầm, tứ, hỉ, lạc và nhất tâm.
Tầm (vitakka) là trạng thái hướng tâm đến một đối tượng; nhiệm vụ nó là đập mạnh vào. Tứ (vicāra) là tư duy được nâng lên cao độ. Ðặc tính của nó là liên tục nhấn mạnh vào đối tượng. Nhiệm vụ của nó là khiến cho những tâm pháp đều tập trung trên đối tượng. Mặc dù tầm và tứ không rời nhau, nhưng tầm có nghĩa là sự xúc chạm đầu tiên của tâm với đối tượng, như đánh lên một tiếng chuông. Còn tứ là buộc tâm vào một chỗ, như rung chuông. Hơn nữa, tầm được ví như bàn tay nắm chặt cái đĩa kim loại bị hoen rỉ, còn tứ như bàn tay chà xát cái đĩa ấy bằng một mảnh dẻ tẩm dầu. Hoặc khi ta vẽ một cái vòng tròn thì cây kim cố định giữa trung tâm ví như tầm, cây kim di động vòng quanh cái tâm điểm đó gọi là tứ. Sơ thiền được xảy đến cùng lúc với tầm và tứ nên được gọi là "Câu hữu với tầm tứ".
Hỉ là trạng thái tươi tỉnh, mát mẻ. Nó gồm có 5 cấp bậc từ thấp lên cao: tiểu hỉ; hỉ như chớp nhoáng; hỉ như mưa rào; hỉ nâng người lên và hỉ sung mãn. Tiểu hỉ chỉ có thể là dựng lông tóc trong người mà thôi. Hỉ như chớp nhoáng thỉnh thoảng lóe lên. Hỉ như mưa rào nổi trên cơ thể liên tục, như sóng vỗ vào bờ. Hỉ nâng người có thể làm cho thân thể mất trọng lượng và bay bổng lên. Hỉ sung mãn là toàn thân được thấm nhuần, như cái chai đổ đầy nước.
Năm thứ hỉ nói trên, khi được làm cho chín muồi thì sẽ viên mãn 2 thứ khinh an là thân khinh an và tâm khinh an. Khinh an được làm cho chín muồi sẽ viên mãn 2 thứ lạc là thân lạc và tâm lạc. Lạc được ấp ủ làm cho chín muồi, sẽ viên mãn 3 thứ định là định chốc lát, định cận hành và định an chỉ.
Lạc (sukha) là sự hài lòng, sự hạnh phúc. Ðặc tính của nó là làm thỏa mãn. Dụng của nó là tăng cường độ các pháp tương ứng. Tướng của nó là sự hỗ trợ.
Khi hỉ lạc được liên kết, thì hỉ có nghĩa "hài lòng vì đạt được điều mong ước", còn lạc là "kinh nghiệm thực thụ đối với điều đã đạt được". Có hỉ tất nhiên có lạc, nhưng có lạc thì không nhất định có hỉ. Hỉ thuộc hành uẩn, lạc thuộc thọ uẩn. Lúc một người khát nước kiệt sức trên sa mạc mà thấy được vũng nước ven rừng, người ấy sẽ có hỉ, nếu người ấy đi đến uống nước ấy thì sẽ có lạc.
Nhất tâm hay định là tâm chuyên chú vào một đối tượng duy nhất.
Sơ thiền là cấp thiền đầu tiên đối với các cấp bậc khác. Chứng (upassampajja) là đạt đến, là thể nhập, đến nơi, sờ chạm, thực hiện. Trú (viharati) là an trú trong tư thế thích hợp đối với cấp thiền đã đạt được.
Từ bỏ 5 pháp tức là từ bỏ 5 triền cái (tham, sân, hôn trầm, trạo hối và nghi). Mặc dù lúc đắc thiền, các pháp bất thiện khác cũng được từ bỏ, nhưng chỉ có 5 pháp nầy là đặc biệt chướng ngại đối với thiền.
Khi tâm bị tham dục chi phối do thèm muốn các đối tượng sai khác, thì không thể tập trung vào một đối tượng duy nhất. Khi tâm bị nhiễm độc bởi sân thì không thể sinh khởi hỉ lạc. Khi tâm bị hôn trầm, thùy miên chi phối, thì rất khó điều phục. Khi bị trạo hối quấy nhiễu, thì tâm trở nên bất an, lăng xăng. Khi hoài nghi nổi lên thì tâm không thể bước lên đạo lộ để đắc thiền.
Những ví dụ về 5 triền cái: Tham dục được ví như một tô nước có trộn lẫn các màu xanh, vàng, đỏ, trắng. Sân được ví như một nồi nước đang đun sôi sùng sục. Hôn trầm được ví như một hồ nước bị rong rêu che phủ. Trạo hối được ví như một hồ nước bị gió chao làm cho nổi sóng. Nghi được ví như một hồ nước bị khuấy bùn đục ngầu. (Tương Ưng bộ kinh, Chương II, phẩm VI, mục 55, tr. 126-129)
Tốt đẹp ở 3 phương diện là chỉ cho 3 giai đoạn đầu, giữa và cuối. Ở Sơ thiền, sự thanh tịnh đạo lộ là chặng đầu; sự tăng trưởng xả là chặng giữa và sự toại ý là chặng cuối.
Mười đặc tính là chặng đầu có 3, chặng giữa 3 và chặng cuối 4. Chặng đầu 3 đặc tính là: tâm được lọc sạch chướng ngại do thiền; nhờ lọc sạch nó chuẩn bị cho trạng thái quân bình ở chặng giữa tức tịnh chỉ tướng; nhờ tâm đã chuẩn bị, nên dễ thể nhập trạng thái ấy. Chặng giữa 3 đặc tính là: hành giả bấy giờ, với trạng thái xả, nhìn tâm đã được thanh lọc; nhìn tâm đã được chuẩn bị cho tịnh chỉ, và nhìn sự xuất hiện của nhất tướng. Chặng cuối có 4 đặc tính là: toại ý vì không có sự quá độ nào trong các pháp khởi lên; toại ý vì các căn chỉ có một nhiệm vụ duy nhất; toại ý vì sự nỗ lực đã có kết quả; toại ý với nghĩa lý thuần thục. Ðó là 10 đặc tính khi một hành giả đã đạt được Sơ thiền.
Khi hành giả đã làm chủ sự tác ý, làm chủ sự chứng đắc, làm chủ sự quyết định, làm chủ sự xuất định và làm chủ sự quán sát, thì lúc xuất khỏi sơ thiền đã trở nên quen thuộc. Vị nầy có thể quán những khuyết điểm của nó như sau: "Thiền nầy bị đe dọa vì gần các triền cái, và các thiền chi còn yếu do bởi tầm, tứ còn thô". Hành giả có thể nghĩ đến Nhị thiền là an tịnh hơn; do đó, chấm dứt bám víu vào Sơ thiền, mà khởi sự làm những gì cần thiết để đạt đến Nhị thiền.
NHỊ THIỀN
Ðến đây, "hành giả làm tịnh chỉ tầm và tứ, chứng và trú Nhị thiền, nội tĩnh nhất tâm, không tầm, không tứ, với hỉ và lạc do định sanh; Vị ấy từ bỏ 2 pháp, có được 3 pháp,tốt đẹp ở 3 phương diện, có 10 đặc tính và thuộc biến xứ đất."
Làm tịnh chỉ tầm và tứ nghĩa là làm cho tầm và tứ lắng xuống, vượt qua Tầm và Tứ, hai thiền chi này không có mặt ở Nhị thiền.
Nội tĩnh nhất tâm: Nội là phát xuất từ nội tâm. Tĩnh là làm cho tâm an ổn với niềm tin, làm lắng dịu sự dao động. Nhất tâm là làm tâm thuần nhất, vững chãi, là sự tập trung cao độ. Từ nầy chỉ cho định.
Có hỉ và lạc như đã giải thích ở Sơ thiền. Do định sanh nghĩa là sinh từ định của Sơ thiền, hoặc sinh từ định tương ưng.
Từ bỏ hai pháp là từ bỏ tầm và tứ. Có được 3 pháp là có hỉ, lạc và nhất tâm. Những gì còn lại cũng giống như đã nói ở Sơ thiền.
Khi hành giả đã nhuần nhuyễn đối với Nhị thiền, dần dần sẽ thấy rõ Nhị thiền còn có những khuyết điểm. Do đó, hướng đến Tam thiền.
TAM THIỀN
Ðến đây, "Hành giả ly hỉ, trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm thọ lạc, một trạng thái mà các bậc thánh tuyên bố là "Có xả và chánh niệm, trú trong an lạc", và vị này đạt đến Tam thiền, từ bỏ một pháp, có được 2 pháp, tốt đẹp ở 3 phương diện, có 10 đặc tính và thuộc biến xứ đất. "
Ly hỉ là vượt qua, làm rơi rụng Hỉ ở Nhị thiền.
Trú xả (Upekkha-xả) có nghĩa là ngắm nhìn sự vật khi chúng xảy ra một cách thản nhiên, không thêm không bớt, không thành kiến. Khái niệm xả này gồm có 10 thứ: Xả thuộc 6 căn; Xả thuộc 4 phạm trú; Xả kể như một giác chi; Xả về tinh tấn; Xả về hành uẩn; Xả về thọ uẩn; Xả thuộc tuệ; Xả kể như tính trung lập đặc biệt; Xả ở thiền; Và xả kể như sự thanh tịnh.
Xả thuộc 6 căn là xả ở một vị đã đoạn tận lậu hoặc. Xả kể như một phạm trú là thái độ bình đẳng đối với mọi loài chúng sanh. Xả kể như một giác chi là trạng thái trung tính. Xả về tinh tấn là trạng thái không quá tinh cần, cũng không quá biếng nhác. Xả thuộc hành uẩn là thái độ thản nhiên đối với những triền cái. Xả về thọ uẩn là tình trạng không lạc không khổ. Xả thuộc tuệ là tính cách trung lập đối với sự suy đạt. Xả kể như tính trung lập đặt biệt là một trong 4 pháp thuộc bất định pháp. Xả thuộc thiền là tính vô tư bình đẳng. Xả kể như sự thanh tịnh là loại xả nhờ đã được tịnh chỉ hết các đối lập. Tóm lại, Xả nầy có đặc tính là trung tính; Nhiệm vụ nó là không can dự. Nó được biểu hiện bằng vô dục. Nhân gần của nó là sự từ bỏ hỉ. Ðó là giải thích về Xả. Sau đây, tiếp tục giải thích các vấn đề ở trên.
Chánh niệm tỉnh giác: Vị ấy nhớ lại (sarati) nên gọi là chánh niệm (sati); có sự giác tỉnh toàn vẹn, nên gọi là tỉnh giác (sampajāna). Mặc dù chánh niệm và tỉnh giác nầy cũng hiện hữu ở 2 thiền đầu, nhưng chưa rõ rệt lắm.
Thân cảm thọ lạc là vị này cảm thấy lạc liên hệ đến thân thể, và sau khi xuất thiền vẫn còn lạc.
Tam thiền là theo thứ tự thiền này được chứng vào hàng thứ 3.
Từ bỏ một pháp, có hai pháp là từ bỏ hỉ, khởi lên lạc và nhất tâm. Ðây là những yếu tố căn bản của thiền thứ 3 này. Nhưng hành giả tu tập thiền này đến độ thuần thục, dần dần sẽ nhận ra thiền này vẫn còn khuyết điểm, nên hướng tâm đến thiền thứ tư.
TỨ THIỀN
Bước sang giai đoạn này " Với sự từ bỏ lạc và khổ, với sự biến mất từ trước của hỉ và ưu, vị này chứng và trú Tứ thiền, không khổ, không lạc, có sự thanh tịnh của niệm nhờ xả. " Và như vậy, hành giả đắc Tứ thiền, từ bỏ một pháp, có 2 pháp, tốt đẹp ở 3 phương diện, có 10 đặc tính và thuộc biến xứ đất.
Với sự từ bỏ lạc và khổ là từ bỏ lạc và khổ của thân. Với sự biến mất của hỉ và ưu là sự biến mất lạc và khổ của tâm. Từ trước là không phải ở giai đoạn Tứ thiền mới xảy ra.
Không khổ không lạc: không khổ vì vắng mặt thân khổ; Không lạc vì vắng mặt thân lạc. Bằng câu này, luận chủ nêu lên loại cảm thọ thứ ba trái ngược hẳn với khổ và lạc, chứ không phải chỉ có sự vắng mặt của khổ và lạc mà thôi. Do đó, không khổ không lạc còn gọi là xả.
Từ bỏ một pháp, có được hai pháp là từ bỏ lạc, có được xả - kể như cảm thọ - và nhất tâm. Ðây là những yếu tố căn bản của thiền thứ tư này.
Tóm lại, trải qua các giai đoạn từ Sơ thiền đến thứ tư, dần dần các yếu tố được loại trừ và còn lại như sau:
- Sơ thiền bỏ 5 triền cái, được 5 thiền chi. - Nhị thiền bỏ tầm tứ, còn lại hỉ, lạc và nhất tâm. - Tam thiền bỏ hỉ còn lại lạc và nhất tâm. - Tứ thiền bỏ lạc còn lại nhất tâm và Xả.
Hệ thống 5 thiền
Ngoài ra, có một số luận sư còn chủ trương hệ thống 5 thiền. Hệ thống này chỉ khác hệ thống 4 thiền ở chỗ chia thiền thứ hai thành ra 2 cấp.
III. Câu đố
1. Năm cảnh dục: sắc, thinh, khí, vị, xúc có "khuyết điểm" nào dưới đây:
a. Hưởng thì ít mà khao khát thì nhiều
b. Năm cảnh thuộc ngoại giới nên tạo nên một thứ "hạnh phúc vay mượn"
c. Vì cảnh không "bền chặt" nên tâm sống trong dục giới thiếu định lực
d. Cả ba câu trên.
2. Tỳ Kheo Nanda vốn rất tương tư vị hôn thê nhưng khi lên cảnh trời thì thấy các tiên nữ đẹp hơn rất nhiều. Vị này khi được hỏi để so sánh thì nói rằng: vị hôn thê giống như con khỉ trong khu rừng cháy. Ðiều đó cho thấy:
a. Tỳ Kheo Nanda là người không có thủy chung
b. Giá trị của cảnh dục có tính tương đối
c. Thiên sắc mới thật sự là tuyệt đối
d. Cả ba câu trên đều đúng.
3. Sự khác biệt giữa tâm thiền và tâm dục giới là:
a. Tâm thiền có khả năng cách ly phiền não
b. Tâm dục giới thiếu sức mạnh của định lực
c. Tâm thiền không chi phối bởi năm triền cái
d. Cả ba câu trên đều đúng.