Thứ Sáu, 12 tháng 8, 2011

III.13. MƯỜI BẤT THIỆN NGHIỆP ĐẠO

Khi Đức Thế Tôn trú ở Pāvā, trong vườn xoài của thợ rèn Cunda, ngài đã thuyết cho thợ rèn Cunda nghe về mười bất thiện nghiệp đạo là điều bất tịnh hạnh cho con người, là nghiệp dẫn đến ác thú, là đạo lộ khổ cảnh. Mười bất thiện nghiệp đạo ấy là:

1- Sát sanh (Pāṇātipātā), là sự sát hại đả thương, cướp mạng sống của chúng sanh, không có lòng từ đối với các loài hữu tình.

2- Trộm cắp (Adinnādānā), là sự lấy của không cho, đoạt tài sản của người khác dù không được người khác bằng lòng.

3- Tà hạnh trong dục lạc (Kāmesu micchācāra) là tà dâm với các hạng nữ nhân còn sự bảo hộ hoặc đã có chồng.

Ba điều sát sanh, trộm cắp, tà hạnh này là thân bất tịnh hạnh, thân ác nghiệp.

4- Nói dối (Musāvāda), là nói không đúng sự thật, có nói không, không nói có, dù nói với bất cứ mục đích gì hễ nói láo đều là miệng nói dối.

5- Nói ly gián (Pisuṇāvācā), là nói chia rẽ, nói đâm thọc với người này chuyện người kia, với người kia chuyện nguời này để hai người ấy bất hòa nhau.

6- Nói độc ác (Pharusavācā), là nói lời thô bạo, thô tục, khiến người nghe đau khổ bực tức.

7- Nói phù phiếm (Samphappalāpa), là nói lời phi chơn, phi thời, phi pháp, phi luật, nhảm nhí, vô ích.

Bốn điều: nói dối, nói ly gián, nói độc ác, nói phù phiếm này là khẩu bất tịnh hạnh, khẩu ác nghiệp.

8- Tham lam (Abhijjhā), là tham muốn tài sản của kẻ khác, mong đoạt tài sản người khác về cho mình.

9- Sân hận (Byāpāda), là tâm phẫn nộ, khởi lên hại ý, hại niệm, muốn cho chúng sanh khác bị chết, bị tiêu diệt.

10- Tà kiến (Micchādiṭṭhi), là có tri kiến sai lầm, tư tưởng điên đảo cho rằng không có đời này, không có đời sau, không có quả báo của thiện ác, không có ân đức mẹ cha, không có thành tựu của đời sống phạm hạnh.

Ba điều: tham lam, sân hận, và tà kiến này là ý bất tịnh hạnh, ý ác nghiệp. -- A.V.263

II.14. MƯỜI THIỆN NGHIỆP ĐẠO

Điều này cũng được Đức Thế Tôn thuyết cho thợ rèn Cunda nghe tiếp theo bài giảng về mười bất thiện nghiệp đạo.

"Này Cunda, có mười thiện nghiệp đạo này là tịnh hạnh về thân có ba, tịnh hạnh về khẩu có bốn, tịnh hạnh về ý có ba. Ai thành tựu với mười thiện nghiệp đạo này sẽ mở con đường dẫn đến thiên giới, nhân giới, hoặc bất cứ thiện thú nào khác".

Mười thiện nghiệp đạo ấy là:

1- Từ bỏ sát sanh (Pāṇātipātā paṭivirato hoti), tức là tránh giết hại chúng sanh, sống bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ thương xót đến các loài hữu tình.

2- Từ bỏ trộm cắp (Adinnādānā paṭivirato hoti), tức là không lấy bất cứ vật gì của người khác với ý niệm cướp đoạt.

3- Từ bỏ tà hạnh trong các dục (Kāmesu micchācārā paṭivirato hoti), tức là không tà dâm, không quan hệ tình dục bất chính với nữ nhân đã có chồng hoặc còn sự bảo hộ.

Ba điều này gọi là thân tịnh hạnh, thân thiện nghiệp.

4- Từ bỏ nói dối (Musāvādā paṭivirato hoti), tức là không nói sai sự thật, có nói có, không nói không, chẳng nói dối vì bất cứ nguyên nhân gì.

5- Từ bỏ nói ly gián (Pisuṇāya vācāya paṭivirato hoti), tức là không nói đâm thọc, không chia rẽ, không phá vỡ sự hòa hợp, không nghe chỗ này nói lại chỗ kia, không nghe chỗ kia nói lại chỗ này để ly gián hai bên; vui hòa hợp.

6- Từ bỏ nói độc ác (Pharusāya vācāya paṭivirato hoti), tức là không nói lời thô bạo ác độc khiến người nghe bực tức đau khổ, chỉ nói lời ngọt ngào tao nhã.

7- Từ bỏ nói phù phiếm (Samphappalāpā paṭivirato hoti), không nói lời vô ích, phi lý, phi chân; chỉ nói lời có ý nghĩa, có lợi ích, nói lời nói đáng để nghe.

Bốn điều này gọi là khẩu tịnh hạnh, khẩu tịnh nghiệp.

8- Không tham lam (Anabhijjhālu hoti), không thèm muốn tài sản của người khác, không thích sang đoạt tài sản của người.

9- Không có sân tâm (Abyāpamacitto hoti), không khởi lên hại ý, hại niệm, luôn có tư tưởng mong cho chúng sanh này được an lạc, không thù hận, không oan trái.

10- Có chánh kiến (Sammādiṭṭhiko hoti), không có tư tưởng điên đảo, không có tri kiến sai lầm, hiểu thấy đúng, tin có đời này đời sau, có sự tái sanh, có quả báu của thiện ác, có ân đức cha mẹ, có sự thành tựu của phạm hạnh.

Ba điều này là ý tịnh hạnh, ý thiện nghiệp. -- A.V.266