Thứ Sáu, 12 tháng 8, 2011



II.10. BỐN SỰ CHUNG SỐNG GIA ĐÌNH

Đức Phật đã thuyết pháp này cho các nam nữ gia chủ khi họ đến viếng thăm Ngài, lúc Ngài đang ở tại một tàn cây trên con đường giữa Madhurā và Verañjā. Đức Thế Tôn thuyết có bốn sự chung sống của nam nữ cư sĩ:

1- Tiện nam chung sống với tiện nữ (Chavo chavāya saddhiṃ saṃvasati), nghĩa là một người nam tính độc ác xấu xa sống chung với một người nữ tính ác độc xấu xa.

2- Tiện nam chung sống với thiên nữ (Chavo deviyā saddhiṃ saṃvasati), nghĩa là một người nam ác độc xấu xa sống với một người nữ tính hiền thiện đạo đức.

3- Thiên nam chung sống với tiện nữ (Devo chavāya saddhiṃ saṃvasati), nghĩa là một người nam hiền thiện đạo đức lại chung sống với một người nữ tính ác độc xấu xa.

4- Thiên nam chung sống với thiên nữ (Devo deviyā saddhiṃ saṃvasati), nghĩa là một người nam tính hiền thiện đạo đức chung sống với một người nữ cũng có tính hiền thiện đạo đức.

Người tính hiền thiện đạo đức là người có giới hạnh, không bỏn xẻn và không hung tàn. Người tính ác độc xấu xa là người không giới hạnh, xan tham bỏn xẻn, và hung tàn. -- A.II.57

II.11. BỐN NHÂN DUYÊN TẠO XỨNG ĐÔI VỢ CHỒNG

Đức Phật đã thuyết pháp thoại này cho vợ chồng của gia chủ, cha mẹ Nakulā. Khi Đức Thế Tôn ngụ tại khu rừng Bhesakalā ở Bhagga, vào buổi sáng Ngài đi khất thực đến trú xứ của hai người ấy. Cả hai người đã bày tỏ rằng họ rất thương yêu nhau và hài lòng về nhau, họ muốn gặp mặt nhau ở đời sau nữa. Đức Phật đã dạy rằng, nếu họ muốn gặp nhau từ đời này đến đời sau, yêu thương và hạnh phúc, cả hai người phải đồng tín, đồng giới, đồng thí và đồng trí tuệ, như vậy sẽ gặp nhau nữa. Bốn nhân duyên tạo xứng đôi vợ chồng là:

1- Đồng có đức tin (Samasaddhā), nghĩa là cả hai người đều có chánh tín, tin tưởng Tam bảo, tin lý nghiệp báo.

2- Đồng có giới hạnh (Samasīla), nghĩa là cả hai người đều giữ giới, không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu.

3- Đồng có bố thí (Samacāgā), nghĩa là cả hai người đều có tâm rộng rãi, xả tài, thích phân phát tài sản đến người nghèo khó, biết cúng dường đến các sa môn.

4- Đồng có trí tuệ (Samapaññā) nghĩa là cả hai người đều có trí hiểu biết chân chánh, có chánh kiến, thấy biết nhân quả, thấy biết bản chất cuộc đời, nhận thức được bốn sự thật khổ - tập - diệt - đạo. -- A.II.61

II.12. NĂM NGHỀ BUÔN BÁN TRÁI ĐẠO CỦA CƯ SĨ

Đức Phật đã thuyết điều này cho các tỳ kheo nghe; một người cư sĩ không nên làm năm nghề buôn bán này:

1- Buôn bán vũ khí (Satthavaṇijjā), nghĩa là buôn bán bất cứ vật gì gọi là khí giới, công cụ dùng để giết hại nhau như gươm đao, cung nỏ, súng đạn v.v...

2- Buôn bán chúng sanh (Sattavaṇijjā), theo chú giải, giải thích điều gọi là buôn bán chúng sanh tức bán con người cho mua về làm nô lệ.

3- Buôn bán thịt (Maṃsavaṇijjā), theo chú giải, điều gọi là buôn bán thịt là buôn bán thú vật cho người ta mua về nuôi hoặc ăn thịt, kể cả việc mua đi bán lại thịt thú được giết mổ.

4- Buôn bán chất say (Majjavaṇijjā), nghĩa là buôn bán các chất làm cho say nghiện, như các loại rượu, cần sa á phiện ...

5- Buôn bán độc dược (Visavaṇijjā), tức là buôn bán chất độc, thứ dùng để đầu độc hại chúng sanh.

Người cư sĩ nuôi sống bằng một trong các nghề buôn bán này gọi là người sống tà mạng. -- A. III. 208