Thứ Sáu, 22 tháng 7, 2011

Phật Pháp Ứng Dụng
23-7-2011

BẢY GIÁC CHI
(Bojjhaṅga)


Danh từ Bojjhaṅga bao gồm hai phần: Bodhi + aṅga.
Bodhi ám chỉ chứng ngộ, giác-ngộ, nói một cách chính xác và rốt ráo là: Thông-đạt bốn chân lý tối thượng: chân lý về khổ, chân lý về nhân sanh khổ, chân lý về sự diệt khổ, chân lý về con đường đưa đến sự diệt khổ.
Aṅga nghĩa là yếu tố, thành-phần.
Bojjhaṅga nghĩa là thành-phần đưa đến sự giác-ngộ, chứng-đạt bốn sự-thật, thường được dịch là giác-chi.

1- Niệm giác-chi (saṭi sambojjhaṅga).
Niệm là yếu tố đầu tiên của sự giác-ngộ, đó là phương tiện hữu hiệu nhất trong sự điều-phục tâm, làm chủ tâm. Bất luận người nào có duyên lành, khi hành pháp niệm một cách đúng đắn là người
Xuyên qua Tam-tạng kinh-điển Pāli, danh từ appamāda được dùng theo nghĩa saṭi, nhưng appamāda mang tính đậm đặc hơn saṭi, saṭi chỉ là sự ghi nhận bình thường, còn appamāda hàm ý "theo dõi sự ghi nhận". Nó giống như người quản đốc theo dõi sự làm việc của người thợ, nếu người quản đốc nhìn người thợ đang làm việc, y ghi nhận rằng: người thợ đang làm việc, đó là Sati, còn y biết rõ sự tiến triển công việc qua sự làm việc của người thợ ví như Appamāda.
Luôn luôn có sự ghi nhớ biết mình là trạng-thái của thức-tỉnh (sampajaññā), hành-giả không thể giữ được sự ghi nhận, nếu không có tỉnh-thức để biết rõ, biết đầy đủ hành động của thân, lời nói cùng ý nghĩ trong từng giây, từng phút.
Chỉ khi nào có được tỉnh-thức, hành-giả mới biết rõ những diễn tiến của thân, ngữ, ý. Khi ấy mới phân biệt được "đây là thiện, đây là bất-thiện", đây là đúng, đây là sai. Mà có được sự tỉnh-thức ấy, phải luôn luôn có sự biết mình, tức là không dể-duôi (appamāda).

2- Trạch-pháp giác-chi (Dhammavicaya sambojjhaṅga)
Là nhiệt thành suy xét pháp, hay suy ngẫm cao độ về giáo-pháp của đức Phật. Chữ vicaya nghĩa là tìm kiếm, sưu tầm.
Trước tiên, hành-giả cần phải có pháp để suy xét, nhưng đó là pháp nào? Là già-bệnh-chết, ba hiện tượng này đã thúc giục Bồ-tát Siddhaṭṭha lên đường, sống đời đạo hạnh giữa chốn rừng sâu và cuối cùng thành-đạt Vô-thượng Chánh-đẳng-giác dưới cội Bồ-đề. Già-bệnh-chết nằm trong thân năm uẩn.
Trong quá trình tu-tập, khi quán-xét về ba hiện tượng này, hành-giả sẽ gặp những suy-tư, những gút mắc, những nghi-vấn. Hành-giả tìm trong giáo-pháp của đức Phật những pháp môn nhằm mục-đích giải quyết những băn khoăn, nghi-hoặc ấy. Trong Phật-giáo không có sự cưỡng bức hay áp chế đức-tin, đức Phật không đòi hỏi hàng tứ chúng có một đức-tin mù quáng, cũng không tán thán loại đức tin này. Trái lại, Ngài tán thán loại đức-tin có suy-nghiệm kỹ, có thực chứng rõ ràng.
Trong Trường-bộ kinh bài kinh Tự-hoan-hỷ (sampasādaniya suṭṭa). Khi Ngài Sārīpuṭṭa bày tỏ lòng tin của mình đối với đức Phật, đức Phật hỏi vì sao có lòng tin đối với bậc Ðạo-sư như vậy? Ngài Sārīpuṭṭa trình-bày: Truyền-thống chánh-pháp do Ðức Thế-tôn thuyết-giảng, được Ngài nhận biết: như pháp đen pháp trắng đều được đối chiếu. Và pháp thiện (pháp trắng) được Ngài thâm hiểu trọn vẹn
Nhưng suy xét từng chi tiết nhỏ nhặt trên phương diện nào? Trên phương diện dẫn đến tác hại hay lợi-ích: tức là suy xét đến hậu quả (phala) của nó. Chính sự suy xét như thế, làm phát-sanh trí nhạy bén trong nhân phát-sanh, nhân đoạn-diệt của pháp (nào đó).
Như vậy, giáo-lý có tính phân-tích (vibhajjavāda) mà đức Phật hướng dẫn cho chư đệ tử, giáo-lý ấy không xây-dựng trên nền-tảng đức-tin mù quáng, giáo-lý này được xây-dựng trên nền-tảng suy-nghiệm và thực chứng. Ðó là giáo-lý hình thành qua trí-tuệ thực tiển.
Hành-giả thực tập điều này, gọi là tu-tập trạch-pháp giác-chi, nhưng phải dựa vào tác-ý đúng.
Trạch-pháp giác-chi là pháp giúp hành-giả có cái nhìn rõ ràng, nhận-thức được những gì đang bị che lấp bên trong, không còn quan điểm mù mờ về các hiện tượng của danh -sắc. Và hành-giả sẽ vượt lên trên mọi lầm-lạc nhờ có tuệ minh-sát sắc bén.

3- Tấn giác-chi (Viriya sambojjhaṅga)
Chi pháp bản thể của tấn là sở-hữu tinh-tấn, nhưng khi tấn hoạt động trong lãnh-vực nào, nó có tên gọi theo lãnh-vực ấy, như:
- Khi kiên-trì nỗ-lực ngăn chặn mọi ác pháp đang sanh hay chưa sanh, ủng hộ các thiện-pháp đang sanh, làm sanh-khởi những thiện-pháp chưa sanh, có tên gọi là Chánh-cần.
- Khi nỗ-lực nhiệt-tâm để thành-tựu những pháp cao-thượng, được mang tên Tấn như-ý túc.
- Trong lãnh-vực cai quản, kiểm-soát các pháp đồng sanh với nó, thì gọi là Tấn-quyền. Còn có sức mạnh, không rung động trước sự biếng nhác, gọi là Tấn-lực.
- Trong phương diện đưa đến giác-ngộ, thoát ra khổ luân-hồi gọi là Tấn giác-chi.
Hành-giả lúc thối chí, biếng nhác trong công việc tu-tập, hành-giả nên nhớ lại đời sống của Ðấng Ðạo-sư.
Ðời sống của đức Phật cho thấy rằng: Ngài không bao giờ có sự mệt mõi tinh-thần hay đạo-đức. Từ lúc thành-đạo Vô-thượng Chánh-giác cho đến phút cuối, trải qua nhiều năm mang lợi-ích đến chúng-sanh, thuyết-giảng những pháp nhằm mục-đích nâng cao phẩm hạnh con người, Ngài không bao giờ có sự dã-dượi biếng nhác tinh-thần, cho dù thân xác Ngài lắm khi phải mệt mõi vì ốm đau, đồng thời phải trải qua những sự chống đối, phỉ báng, ám hại của thế-gian, phải trải qua những nghịch-cảnh của đời sống.
Hành-giả suy nghĩ rằng: "Vì hạnh-phúc của chúng-sanh (chẳng phải vì lợi-ích của Ngài), Ðức Ðạo-sư không ngừng cố-gắng, không phải bao giờ Ngài cũng khoẻ mạnh nhưng Ngài không hề giảm sút nỗ-lực về mặt tinh-thần. Ta là môn đệ của Ngài, vì lợi-ích cho chính mình, tại sao ta lại biếng nhác chứ? Người có trí sẽ chê trách ta, không tán thán ta". Ðó là động cơ thúc giục sự tinh-
"Này chư tỳ-khưu! Ví như điềm báo trước mặt trời sắp mọc là rạng đông, cũng vậy, này các tỳ-khưu! điềm báo trước bảy giác-chi sanh-khởi là làm bạn với thiện ...".
Và:
"Này các tỳ-khưu! Ví như điềm báo trước mặt trời sắp mọc là rạng đông, cũng vậy, này các tỳ-khưu! điềm báo trước bảy giác-chi sanh-khởi là tác-ý đúng...". (Tương-ưng kinh)
Qua hai đoạn kinh trên, chúng ta thấy: Tác-ý đúng và làm bạn với thiện làm sanh-khởi bảy giác-chi.
Ở đây, bốn chánh-cần là thiện, là nhân sanh-khởi tấn giác-chi, nhưng mục-đích của chánh-cần là tích lũy thiện, không cho thiện bể vụn, hư hoại do ác pháp sanh-khởi, còn mục-đích của tấn giác-chi là đoạn tận nghiệp, dẫn đến đoạn tận khổ.
"Này các tỳ-khưu! Con đường nào, đạo lộ nào đưa đến đoạn tận khát ái. Hãy tu-tập con đường ấy.
Này các tỳ-khưu! Con đường, đạo lộ đưa đến đoạn tận khát ái, đó là bảy giác-chi ...
Này Udāyi! Như vậy, do khát ái đoạn tận, nên nghiệp đoạn tận. Do nghiệp đoạn tận nên khổ đoạn tận". (Tương-ưng kinh)
Ðể nhận định rõ ràng hơn vấn đề này, chúng ta xét qua kết quả của chánh-cần và tấn giác-chi. Chánh-cần tích lũy thiện, gìn-giữ thiện không cho hư hoại, bể vụn nên kết quả của chánh-cần là quả an lạc, quả trắng, còn Tấn giác-chi có kết quả như thế nào?
Do đó, trong sự tu-tập bảy giác-chi, hành-giả nên nhận-định rõ ràng về ý-nghĩa cùng mục-đích của giác-chi.
Chánh-cần được tu-tập đồng nghĩa là bảo tồn thiện-pháp, gần gũi thiện, làm bạn với thiện. Ðó là nhân để sanh-khởi tấn giác-chi.
Vấn đề được đặt ra là: Làm thế nào để bảo tồn thiện luôn luôn được tinh sạch? Chính là sự suy-tư đến thiện liên-hệ với thiện, nhờ đó các suy-tư liên-hệ đến dục, sân, si, ác bất-thiện pháp không thể sanh-khởi, đang sanh-khởi bị đoạn trừ. Tức là, hành-giả nỗ-lực trong sự suy-tư về thiện-pháp, khi có một tư-tưởng ác xấu sanh-khởi, nó sẽ bị tiêu diệt ngay.
"Ví như người thợ mộc thiện xảo hay đệ tử người thợ mộc, dùng một cái nêm nhỏ, đánh bật ra, đánh tung ra cái nêm khác...". (Kinh Đình chỉ tư duy, Trung bộ kinh)
Ðối với người lười-biếng, không tinh-tấn, con đường trong sạch xem như bị khóa chặt.
Hành-giả là người có nguyện vọng thành-đạt giác-ngộ, phải tự nung đúc mình một ý chí dũng-mãnh với đức-tin không thối chuyển. Và sự giác-ngộ, giải-thoát khổ không nằm ở ngoài ta, nằm ở chính trong thân ngũ-uẩn.
"Này Rohiṭassa! Như-lai tuyên bố, chính trong thân ngũ-uẩn có sự khổ và sự diệt khổ". (Aṅguṭṭara-nikāya)
Hành-giả nên lập tâm rằng:
"Bổn phận của ta là phải nỗ-lực đạt cho được sự giải-thoát, cửa giải-thoát không hề đóng khóa chặt, chìa khóa mở cửa giác-ngộ không nằm trong tay ai cả, nên ta không cần phải van vái nguyện cầu để được ban bố.
Cánh cửa giải-thoát của ta không bao giờ cài khóa chắc, chỉ có ta là người cài khóa chắc bằng sự biếng nhác".
Ðức Phật có dạy rằng:
Uṭṭhānakālamhi anuṭṭhāno
Yuvā balī ālasiyaỵ upeṭo
Saṃsannasaṅkappamano kusīṭo
Paññāya maggaṃ alaso na vindaṭi.
"Người sống tiêu cực, uể-oải, không tinh-cần trong thời cần phải tinh-cần,
người tuy trẻ tuổi, khỏe mạnh vẫn lười-biếng với tinh-thần suy nhược,
sẽ không có trí-tuệ chứng ngộ con đường giải-thoát". (Pháp Cú 280)
Ðó là động cơ thúc giục sự nỗ-lực tinh-cần khởi lên trong tâm của hành-giả với ý chí mãnh-liệt.

(Còn tiếp)

Trích ĐƯỜNG ĐẾN GIÁC NGỘ. TK CHÁNH MINH