Thứ Năm, 21 tháng 7, 2011

Phật Pháp Ứng Dụng
22-7-2011

NGŨ LỰC
(Pañca-bala)


Gọi là lực (balāni) vì có khả-năng áp đảo các trạng-thái đối nghịch.

Trong Paṭisambhidāmagga có giải thích: "gọi là lực do ý-nghĩa: không bị rung động (akampaṭṭhena) trước pháp đối nghịch".

Tương-tự như năm quyền là năm lực.

1- Tín-lực (sadhā bala): với ý-nghĩa không rung động trước sự vô-tín.
2- Tấn-lực (vīriya bala): với ý-nghĩa không rung động trong sự biếng nhác.
3- Niệm-lực (saṭi bala): với ý-nghĩa không rung động trong sự dể-duôi (pamāda).
4- Ðịnh-lực (samādhi bala): với ý-nghĩa không rung động trong sự tán-loạn.
5- Tuệ-lực (paññā bala): với ý-nghĩa không rung động trong mê-muội, lầm lẫn.

Ở đâu có quyền ở đó có lực.

Trong Tương-ưng kinh, phẩm Tương-ưng quyền, đức Phật có dạy:

-"Này chư tỳ-khưu! cái gì là tín-quyền, cái ấy là tín-lực, cái gì là tín-lực, cái ấy là tín-quyền...
Cái gì là tuệ-quyền, cái ấy là tuệ-lực, cái gì là tuệ-lực, cái ấy là tuệ-quyền...
".

Ở đây, bản chất pháp thực-tính của năm quyền và năm lực là một, chỉ khác nhau về khía cạnh tác-dụng: quyền có ý-nghĩa là cai quản kiểm-soát, còn lực là sự không rúng động, áp đảo pháp nghịch. Ví như gạo tẻ nấu thành cháo cho người bệnh dùng, nấu thành cơm cho người khỏe mạnh dùng, cơm hay cháo tuy khác tên gọi, nhưng bản chất cũng là gạo tẻ, tuy bản chất như nhau nhưng công dụng khác nhau.

Năm lực cũng giống như năm dũng tướng đang nỗ lực, hăng say tiêu diệt vương-quốc đối nghịch là vùng tùy-miên, trước tiên là thành-trì thân-kiến.

Ðây là năm lực mà hàng xuất-gia cũng như tại gia cần tin cậy.

Tín-lực (saddhā bala)

Tương-tự như tín-quyền, tín-lực cũng có hai loại:

- Tín-lực thông-thường (pakaṭi saddhā).
- Tín-lực tu-tập (bhāvanā saddhā).

Sức-mạnh của đức-tin bình thường giống như cây yếu mọc trên đất mềm, dễ bị gió làm lay động, để rồi đánh bật cả gốc rễ. Cũng vậy, thường tín-lực không có sự tu-tập qua pháp-hành đặc biệt, thường tín-lực ấy dễ bị sức mạnh của ái-dục xuyên qua một trong năm trần-cảnh hay pháp khả-ái khả-lạc xâm nhập vào. Và thế là đức-tin ấy chỉ tạo những thiện-nghiệp bình thườnh như: bố-thí, trì-giới ...

Sự bố-thí với ước muốn được có nhiều tài-sản vật-chất hay trì-giới để được sống lâu, được an lạc... đó là do sức mạnh của ái-dục dẫn dắt.

Sức mạnh đức-tin loại này, không thể chống lại hay khắc-chế ái-dục được, ngược lại chính ái-dục điều khiển đức-tin bình thường, đức-tin bị dẫn dắt như thế gọi là đức-tin không có lực. Chính cái lạc trong vật-chất là vũ khí đắc lực của ái-dục dùng để khống chế đức-tin bình thường.

Những bài kinh Pāli nêu ra rất rõ ràng về bốn pháp-hành của bậc trí là truyền-thống của bậc Thánh (ariyavaṃsa):

- Tri-túc trong vật-thực.
- Tri-túc trong y phục.
- Tri-túc trong chỗ cư ngụ.
- Thỏa thích trong tu-tập (Chỉ hay Quán).

Bốn lãnh-vực này là vương quốc rộng lớn của đức-tin, đức-tin ẩn náu trong bốn lãnh-vực này.

Hiện-tại, chúng-sanh vui thích trong những điều-kiện vật-chất (paccayāmisa) như tiền tài, địa vị, quyền tước, danh vọng ... họ vui thích trong đời sống khoái-lạc vật-chất, tầm cầu tài-sản thuộc về thế-gian, quyền lực (vaṭṭāmisa) ... Và trong vương-quốc ái-dục có đầy đủ những loại này, vương-quốc ái-dục càng rộng mở thì vương-quốc đức-tin ngày càng thu hẹp, giống như nước đại-dương lấp dần hải-đảo, hải-đảo ngày càng thu nhỏ, trái lại đại-dương càng lúc càng nới rộng. Ðiều này cho thấy sự yếu ớt của đức-tin bình thường.

Chính đức-tin tu-tập qua pháp niệm như niệm hơi thở, niệm thân trong thân... đó là loại đức-tin cần phải trau dồi, làm cho sung-mãn, đức-tin ấy có sức mạnh áp-chế, khắc-phục những dao-động, bất-ổn của tâm, cho đến khi chúng biến mất.

Chính đức-tin có sức-mạnh như thế, mới có thể loại trừ ái-dục, không thích-thú hân-hoan trong lợi-dưỡng về vật-thực, y phục, trú-xứ ...

Dạ xoa Ālavaka hỏi đức Phật rằng:

Kaṭhamsu ṭaraṭi oghaṃ
Kaṭhamsu ṭaraṭi annavaṃ
Kaṭhamsu dukkhaṃ acceṭi
Kaṭhaṃ parisujjhaṭi.

Nghĩa là:

"Vượt qua bốn dòng nước xoáy bằng cái gì?
Vượt khỏi đại-dương bằng cái gì?
Giải-thoát khổ bằng cái gì?
Làm thế nào tâm được trong sạch".

Ðức Phật dạy rằng:

Saddhāya ṭaraṭi oghaṃ
Appamādena annavaṃ
Viriyena dukkha acceṭi
Paññāya parisujjhaṭi.

Nghĩa là:

"Ðức-tin vượt dòng nước lũ
Không dể-duôi thoát khỏi đại-dương
Giải-thoát khổ nhờ tinh-tấn
Trí-tuệ khiến tâm trong sạch".

Chính đức-tin tu-tập giúp cho hàng xuất-gia lẫn tại gia thoát ra bốn dòng nước xoáy quá sâu đậm (ogha) trong hiện-tại lẫn tương-lai, không còn bị bốn dòng nước ấy cuốn trôi vào đại dương khổ luân-hồi. Bốn dòng nước ấy là:

1) Kāmogha: bị ngũ-dục cuốn trôi (dục-bộc).
2) Bhavogha: bị cảnh giới cuốn trôi, là có ước vọng thụ-hưởng khoái-lạc ở những kiếp sau(hữu-bộc).
3) Diṭṭhogha: bị tà-kiến cuốn trôi (kiến-bộc).
4) Avijjogha: bị sự mê-muội, lầm-lạc cuốn trôi (vô-minh bộc).

Nói gọn hơn, chính đức-tin tu-tập giúp cho người có nguyện vọng giải-thoát cái khổ, ra khỏi ba loại ái là: dục-ái, hữu-ái và phi-hữu ái. Ái chính là nguồn gốc của đau-khổ, là nhân sanh ra mọi khổ-lụy trên đời, đức-tin tu-tập chính là hải đảo an-toàn vượt thoát khổ-cảnh.

Ðức-tin tu-tập được biểu hiện qua bốn pháp-hành thuộc truyền-thống ở trên.

Tấn-lực (vīriya bala) cũng có hai loại như tấn-quyền: Tinh-tấn thông-thường và tinh-tấn tu-tập.

Tinh-tấn thông-thường là loại tinh-tấn không đủ sức chế-ngự lười-biếng (kosajja), tuy tinh-tấn này vẫn tạo ra những thiện-nghiệp khi có cơ hội, có dịp thuận tiện, nhưng cũng chỉ là thiện-nghiệp thông-thường như bố-thí, trì-giới, nghiên cứu, học hỏi phật-pháp ... Loại tinh-tấn này chỉ thực-hiện trong những điều-kiện thuận lợi dễ-dàng mà thôi, nếu gặp phải chướng-ngại sẽ thối thất, sinh ra biếng nhác ngay.

Như vào ngày Uposaṭha (bố-tát) là ngày đến chùa nghe pháp, nhưng nếu gặp thời-tiết xấu như có mưa chẳng hạn, lập tức sẽ có lý do để không đi nghe pháp, hoặc đến thời tụng kinh, nhưng vừa làm xong việc gì đó, nại cớ là còn đang mệt, nghỉ khoẻ rồi hãy tụng kinh và thời tụng kinh ấy được gác lại cho đến hôm sau.

Tinh-tấn bình thường bị lười-biếng điều khiển do tám cách:

1. Kammaṃ kāṭabbaṃ hoṭi: sắp phải làm việc gì đó.
2. Kammaṃ kaṭaṃ hoṭi: Vừa làm xong việc gì đó.
3. Maggo ganṭabbo hoṭi: Sắp phải đi đường xa.
4. Maggo gaṭo hoṭi: Vừa đi xa về còn đang mệt mỏi.
5. Gāmaṃ vā nigamaṃ vā piṇdāya caronṭo hoṭi: Sắp phải đi vào thôn xóm để khất thực, nên mệt nhọc ...
6. Gāmaṃ vā nigamaṃ vā piṇdāya caronṭo alaṭihaṃ lākhassa vā paṇīṭassa vā hoṭi: đi khất thực vừa xong, còn mệt nhọc.
7. Uppanno hoṭi appamaṭṭako ābādho hoṭi: Vừa khỏi bệnh nên cần phải nghỉ cho khỏe.
8. Gilānā vuṭṭhiṭo hoṭi: Vừa khỏi bệnh xong, cần nghỉ ngơi cho khỏe.

Ðây là tám nhân sanh lười-biếng.

Chúng-sanh gặp được giáo-pháp của đức Phật, nên hiểu rằng: "Trong quá-khứ vô tận của luân-hồi, họ bị sa đọa vào bốn khổ-cảnh do thân-kiến cùng ác-nghiệp, tuy có ước muốn thoát khỏi bốn khổ-cảnh, nhưng nỗ-lực tinh-tấn để đạt ước muốn ấy lại không có".

Họ chỉ mong muốn được như bà Visākhā, ông Anāṭhapiṇḍika ... chỉ cần nghe một thời pháp, chứng đạt đạo-quả, nhưng họ không biết rằng: "Ðược như vậy, những vị này đã trải qua thời gian trăm ngàn kiếp trái đất và trong quá-khứ cũng từng tinh-tấn hành pháp".

Một số khác, hiểu được điều này, lại có sự thất vọng rằng: "có hành pháp tinh-tấn cho mấy cũng không đạt được đạo-quả, vì thiếu ba-la-mật". Những người này, làm sao biết mình thiếu ba-la-mật nhỉ?

Hai suy nghĩ trên là do vô-minh cùng sự lười-biếng điều khiển.

Ngay khi quyết định khai-thị pháp giác-ngộ đến những người có duyên lành, Ðức Thế-tôn tuyên bố rằng:

"Apāruṭā ṭesaṃ amaṭassa dvārā
Ye soṭavanṭā pamuñcaṭu saddhaṃ

Cửa vô sanh bất tử đã mở cho chúng-sanh,
cho những ai có tai muốn nghe, đặt trọn niềm tin".

Phương thưc loại trừ biếng nhác là thỏa thích trong pháp-hành.

Ðối với vị tỳ-khưu, vào lúc xuất-gia, có bốn pháp nên nương (nissaya dhamma) là:

- Nuôi mạng bằng cách đi khất thực.
- Mặc y phấn tảo.
- Ở dưới cội cây.
- Trị bệnh bằng nước tiểu bò đen.

Ðó là những vị thuốc trị bệnh lười nhác, ngoài ra còn có muời ba pháp đầu-đà, đây là sự tinh-tấn để loại trừ những bất-thiện phát-sinh lên từ sự dể-duôi, biếng nhác. Và đó cũng là những pháp được nêu trong lãnh-vực tinh-tấn.

Hiện-tại sự tinh-tấn nằm trong vùng lu mờ, chí đến vị tỳ-khưu hiện thời, tuy vẫn biết mình là hạng chúng-sanh còn thân-kiến, ác-nghiệp, không khéo sẽ rơi vào ác khổ địa. Thế nhưng, họ vẫn sống trong những trú-xứ nhộn nhịp của thành thị, thị trấn, họ vui thích thọ lãnh những vật thí có giá trị cao, hay những lễ nghi được tổ chức linh đình ... Họ không thể sống xa cách hội-chúng, càng lúc càng mong mỏi có đông đồ chúng. Tất cả những điều ấy là nơi ẩn náo của tâm trong ngôi nhà lười-biếng, cho thấy tính-chất yếu-đuối của tinh-tấn bình thường.

Chỉ có tinh-tấn tu-tập như: ít ngủ, tỉnh-giác, năng động, không e dè sợ-hãi, can đảm, thực-hành Chỉ hay Quán. Sự tinh-tấn này có năng-lực áp chế, khai trừ biếng nhác. Trong 37 pháp trợ giác-ngộ, tinh-tấn tu-tập là pháp cần đạt được.

Tương-tự như thế đối với niệm-lực, định-lực, tuệ-lực.

Niệm-lực (sati bala)

Niệm cũng có hai loại: Niệm thông-thường và niệm tu-tập.

Niệm thông-thường không thể khắc chế được vọng niệm hay thất niệm (muṭṭhasacca). Vọng-niệm là sự chú ý, ghi nhận không đúng phương-pháp.

Khi hành-giả tu-tập chỉ hay quán, trong giai-đoạn đầu, thường xuất hiện những ảo cảnh (māyārammaṇa), những cảnh này do tưởng tạo ra, với mục-đích đưa tâm trở lại vào vùng ngự-trị của chúng. Như có số hành-giả thấy mình giao tiếp được với chư-thiên, được chư-thiên trò chuyện ... để rồi tâm cứ bám theo những hình ảnh ấy, xa lìa đề mục ban đầu như hơi thở ... Ðó là vọng-niệm

Mặc dù những cảnh ấy là ấn-tướng của thiện-pháp bởi nương sanh lên từ đức-tin, nhưng nếu tâm dính mắc vào những cảnh ấy, tâm đang bị ái trói-buộc, khiến hành-giả quên đi mục-đích chính là: "đạt được cảnh Níp-bàn tịch tịnh". Nếu nhận thấy mình bị cảnh tốt đẹp ấy quyến-rũ, không muốn lìa nó, hành-giả cần hiểu rằng: "đang bị ái chi phối", đồng thời niệm-lực không đủ sức mạnh, vì rằng: "Niệm-lực có ý-nghĩa là không rung động trong sự dể-duôi". Tâm dính mắc trong cảnh tốt đẹp là tâm dể-duôi, bị ái dẫn dắt.

"Sabbe dhammā anaṭṭā’ṭi: Các pháp đều là vô-ngã".

Hành-giả cần tác-ý rằng: "Cảnh tốt đẹp ấy dù là cảnh thiện-pháp cũng chẳng phải của ta, đó là vật vay mượn của ái luân-hồi, hãy nhanh chóng lìa bỏ nó, hãy hướng tâm đến Níp-bàn". Nói gọn hơn: vọng niệm là do những cảnh thiện-pháp sanh-khởi, tâm dính mắc vào những cảnh ấy, nên xa lìa đề mục chính.

Còn thất niệm? Chữ muṭṭhasacca nghĩa là sự bỏ quên, lãng-quên. Thất-niệm là bất lực trong sự chú ý ghi nhận, không thể tập trung bằng sự kiểm-soát tâm, tâm chạy theo cảnh, quên-lãng đề mục thiền.

Niệm bình thường không có sức mạnh để áp đảo sức mạnh của phóng-dật, khiến niệm không thể khắn khít vào đề mục thiền, chính niệm tu-tập được làm cho sung-mãn mới loại trừ được vọng-niệm hay thất-niệm.

Ðịnh-lực (samādhi bala).

Ðịnh cũng thế, có hai loại là định thông-thường và định tu-tập.

Ðịnh thông-thường không thể áp chế được sự quấy nhiểu (vikkhepa) của phóng dật, đó là những tư-tưởng lang thang trong sự tưởng-tượng mông lung, hành-giả không thể gom tâm vào đề mục, không thể tập trung, kiểm-soát được tâm, tâm không thể yên-lặng khi hành thiền, nó chạy theo cảnh không dừng nghỉ.

Ðịnh thông-thường không thể loại trừ trạng-thái tán-loạn của tâm, chỉ có định tu-tập làm cho sung-mãn mới làm được điều ấy.

Tuệ-lực (paññā bala).

Tuệ cũng có hai là tuệ thông-thường và tuệ tu-tập.

Ðối tượng cần áp đảo của tuệ là mê-muội (sammoha), mê-muội là một chi nhánh của vô-minh. Vô-minh ngoài nghĩa mê tối, còn có ý-nghĩa là lầm-lạc. Không biết các pháp hữu-vi đều là vô-thường, khổ, vô-ngã đã là tai hại, nhưng lầm-lạc trong vô-thường cho là thường, khổ cho là hạnh-phúc, vô-ngã cho là ta, lại càng tai hại hơn nữa. Chẳng khác nào một người bị vết thương trên thân, dùng nước dơ nhiễm độc, cho rằng nước ấy là sạch, là tinh-khiết để rửa ráy, vết thương. Vết thương chẳng những không lành mà còn phát-triển khiến người ấy có thể mạng chung.

Trạng-thái mê-muội là bóng tối che phủ tâm, trí-tuệ bình thường không thể xua tan bóng tối ấy, ngay cả trí thông-suốt tam-tạng pháp-học cũng không thể loại trừ bóng tối ấy, trí bình thường cũng ví như ánh sáng đom đóm, ánh sáng đống lửa, nó không thể soi sáng cả vùng đen tối rộng lớn. Chỉ có ánh sáng thái dương mới đẩy lùi bóng tối đang bao phủ cánh đồng rộng mênh mông.

Ánh sáng mặt trời ví như trí tu-tập, chỉ có trí tu-tập mới đoạn trừ tận gốc rễ vô-minh ngủ-ngầm. Tuệ-lực là một sức mạnh xua đuổi tối tăm, giúp hành-giả nhận thấy rõ ba tướng: Vô-thường, khổ, vô-ngã của pháp hữu-vi, đồng thời áp chế được các pháp điên-đảo: thường -lạc -ngã -tịnh.

Năm pháp đối nghịch với năm lực là:

1. Ái đối nghịch với tín-lực.
2. Giãi-đãi (kosajja) đối nghịch với tấn-lực. Giãi-đãi là sự bất lực hay thiếu nhiệt-tâm trong sự hành pháp.
3. Thất-niệm đối nghịch với niệm-lực
4. Sự tán-loạn (vikkhepa) đối nghịch với định-lực.
5. Si-mê đối nghịch với tuệ-lực.

Trich DUONG DEN GIAC NGO. TK CHANH MINH