Thứ Tư, 20 tháng 7, 2011

Phật Pháp Ứng Dụng
21-7-2011

Ngũ căn
(Indriya)

Danh từ indriya được giải thích là:

Indassa kammam indriyam.

Có nghĩa: indriya là hành động thống trị hay kiểm soát, của người cai trị. "Hành động thống trị" có nghĩa là bất luận ở nơi đâu, người thống trị cũng có toàn quyền định đoạt, không ai có thể chống đối hay cưỡng lại.

Nơi đây, kiểm soát hay thống trị tâm mình là điểm chánh yếu của Ngũ Căn, tức năm khả năng kiểm soát tâm.

Có năm Khả Năng như thế ấy: [1]

1. Saddhindriya(Tín Căn)
2. Viriyindriya(Tấn Căn)
3. Satindriya (Niệm Căn)
4. Samàdhindriya (Ðịnh Căn)
5. Pannidriya(Tuệ Căn)

Tín Căn

Saddhindriya, (ở một mức độ nào) đồng nghĩa với saddhà, đức tin. Nhưng có hai saddhà, đức tin, là:

1. Pakati-saddhà, Ðức Tin thông thường, và
2. Bhàvanà-saddhà, Ðức Tin được Tu Tập (tức được trau giồi hay thuần thục hóa) do pháp hành thiền.

Ðức Tin và sự tín nhiệm (saddhà) dắt dẫn người thường thực hiện những hành động như Bố Thí (dàna), Trì Giới (sìla) và "bắt đầu tập tành" Hành Thiền (Bhàvanà) [2] -- được gọi là Ðức Tin Thông Thường. Nơi đây, như đã chỉ trong hình ảnh người mất trí (chương II), mặc dầu ở một mức độ nào, niềm tin (saddhà) ấy cũng là một Khả Năng Kiểm Soát, nó không tăng trưởng đến khả năng có thể kiểm soát cái tâm chao động của một người thường trong khi hành thiền (bhàvanà). Tầm mức kiểm soát chỉ đến mức độ kềm chế và hướng dẫn một cái tâm bất ổn đến hành động Bố Thí, Trì Giới và "bắt đầu" hành thiền.

Không có Ðức Tin và Tín Nhiệm (saddhà) tâm không bao giờ hướng về thiện nghiệp, kusala kamma (những hành động có tác ý trong sạch) bởi vì thông thường tâm chỉ thỏa thích trong những hành động bất thiện. Ðiều nầy đúng, trong nỗ lực thành đạt Giới Tịnh (sìla visuddhi) cũng như trong việc nghiên cứu học hỏi kinh điển. Bởi vậy cho nên những hành động thiện thông thường (pakati-kusala-kamma) cũng được tạo nên do Ðức Tin Thông Thường (pakati-saddhà), không phải được trau giồi qua pháp hành thật sự thích đáng (abhàvita).

Trong công trình theo dõi một đề mục hành thiền (kammatthàna) khi thực hành thiền Vắng Lặng và Minh Sát, Ðức Tin Thông Thường không đủ khả năng để kiểm soát tâm vì tâm có thể từ chối, thối lui và nhảy ra khỏi Ðức Tin sang một nơi khác. Trong công trình hành thiền, Ðức Tin Thông Thường không đủ.

Chính Ðức Tin được Trau Giồi chuẩn bị nền tảng để tâm thâu thập cường độ và năng lực qua pháp hành thiền, như Niệm Hơi Thở.

Trong phạm vi các "Phẩm Trợ Ðạo" (bodhipakkhiya-dhamma) chính "Ðức Tin được Trau Giồi" (bhàvanà saddhà) được gọi là saddhindriya, Tín Căn, hay đức tin có khả năng kiểm soát. Trong công phu hành thiền, Ðức Tin nầy một đàng tự biểu hiện qua sự biến dạng của tình trạng chú tâm bất ổn định và chao động và đàng khác tượng trưng cho sự xuất hiện của tâm sáng suốt và vững bền. [3] Trạng thái gom tâm chỉ có thể vững chắc tập trung vào những đề mục sáng tỏ không mù mờ. Pháp hành Niệm Thân (kàyagatà-sati) như Niệm Hơi Thở, chuẩn bị làm nền tảng cho bhàvanà-saddhà, Ðức Tin và Tín Nhiệm được công phu thực hành thiền tập trau giồi, phát triển và thuần hóa. Nếu gom tâm vào pháp Niệm Thân, như niệm hơi-thở-ra-và hơi-thở-vào, có nghĩa là đã có Ðức Tin được Trau Giồi. Chừng đó, nếu tiếp tục hành thiền Vắng Lặng (samatha) và Minh Sát (vipassanà), hành giả sẽ thành đạt khả năng tận diệt ba tầng lớp của Thân Kiến (sakkàya-ditthi) trong chính kiếp sống hiện tại. Công phu hành thiền Vắng Lặng và thiền Minh Sát cần phải được thực hành thích nghi. Hành giả phải nương tựa nơi một vị thầy thông suốt Giáo Pháp.

Tấn Căn

Viriyindriya, ở một mức độ nào, là đồng nghĩa với viriya, tinh tấn. Nhưng có hai loại, hay hai trình độ tinh tấn. Ðó là:

1. Pakati-viriya, Tinh Tấn Thông Thường, và
2. Bhàvanà-viriya, Tinh Tấn được Trau Giồi bằng pháp hành thiền.

Một cách phân loại khác là:

1. Kàyika-viriya, thân tinh tấn, và
2. Cetasika-viriya, tâm tinh tấn.

Tinh Tấn Thông Thường (pakati-viriya) có thể được nhận ra dễ dàng. Những người có nhiều Tinh Tấn Thông Thường trong những vấn đề thế gian cũng có thể dễ dàng đạt đến loại Tinh Tấn Trau Giồi (bhàvanà-viriya). Hạnh đầu đà (dhutanga) hay những giới luật nghiêm khắc của vị tỳ khưu là một thí dụ về Thân Tinh Tấn trong bản chất được trau giồi (kàyika-bhàvanà-viriya).

Nếu, sau khi vững vàng trau giồi "Thân Tinh Tấn" như giảm bớt ngủ nghỉ, tỉnh thức và cương quyết, mà vẫn không đạt đến "Tâm Tinh Tấn" (cetasika-viriya), như hăng say chăm chú hành thiền (bhàvanà-manasikàra), vững chắc định tâm vào đề mục hành thiền (kammatthàna), như Niệm Hơi Thở, và thời gian thực hành kéo dài mà không thành tựu trạng thái tâm sáng suốt, ta phải suy tư.

Bất luận làm việc gì, chỉ khi nào người thực hành công việc ấy nhanh chóng làm chủ vấn đề -- tức nắm vững, hiểu biết rõ ràng và cặn kẻ vấn đề -- mới hoàn thành thích nghi và đúng đắn. Công việc sẽ không được hoàn tất thích nghi và viên mãn nếu chính công việc ấy làm chủ người thực hành. Nói rằng "công việc làm chủ người thực hành" có nghĩa là công việc được thực hành một cách lơ đễnh dể duôi, không hăng say, không thật sự nhiệt tâm. Người thực hành sẽ không gặt hái kết quả thiết thực, rồi ngày qua ngày, tháng nầy kéo dài sang tháng kia, đâm ra chán nản (trong pháp hành) buồn phiền, rồi ngán ngao uể oải dẫn đến hôn trầm dã dượi. Vì hôn trầm dã dượi, pháp hành không tiến, rồi vì pháp hành không tiến triển, càng thêm dã dượi hôn trầm. Chừng ấy sẽ có ý nghĩ phát sanh thúc giục nên thay đổi phương pháp thực hành. Như vậy luôn luôn thay đổi pháp hành, và đó là "công việc làm chủ người thực hành kém tinh tấn".

Trong công phu hành thiền chỉ nhanh chóng thâu hoạch thành quả khi có đủ cả hai, thân tinh tấn và tâm tinh tấn. Từ lúc nắm vững pháp hành Niệm Hơi Thở, hạnh tinh tấn ngày càng phát triển thêm lên là bhàvanà viriya (tinh tấn được phát triển do pháp hành thiền) và trong các Phẩm Trợ Ðạo (bodhipakkhiya-dhamma) được gọi là viriyindriya (Tấn Căn). Tinh tấn nầy được tiêu biểu bằng sự biến dạng tình trạng dã dượi hôn trầm và sự xuất hiện tình trạng nhiệt thành, hăng say và cương quyết, trong khi hành thiền. Tâm thỏa thích mạnh mẽ tập trung vào đề mục. Do đó, nhiệm vụ thiết lập "Tinh Tấn được Trau Giồi và Phát triển" do pháp hành thiền cũng giống như nhiệm vụ thiết lập "Ðức Tin được Trau Giồi và Phát Triển" do pháp hành thiền.

Trong các Phẩm Trợ Ðạo (bodhipakkiya-dhamma) Niệm Căn (satindriya) có nghĩa là vững chắc thiết lập chú niệm vào thân kàyagatà-sati, Niệm Thân, tức vào hơi-thở-ra và hơi-thở-vào và trau giồi pháp quán niệm (Bhàvanà-sati) gọi là Satipatthàna, (Niệm Xứ), cho đến Chánh Niệm Siêu Thế (lokuttara-sammà-sati), như là một chi của Ðạo siêu thế.

Ðịnh Căn và Tuệ Căn (samàdhindriya và pannindriya) cũng có thể được định nghĩa và mô tả cùng một thế ấy.

Ðịnh Căn loại trừ tình trạng tâm phóng dật khi được áp đặt vào pháp Niệm Xứ (Satipatthàna), như đề mục Niệm Hơi Thở. Tuệ Căn loại trừ tình trạng tâm rối loạn và mơ hồ.

Tín Căn, Tấn Căn và Niệm Căn -- đến trước Ðịnh và Tuệ -- cũng như những người hỗ trợ một vì vua lên ngôi. Tín, Tấn và Niệm hỗ trợ Ðịnh và Tuệ chí đến tuyệt đỉnh cao.

Sau khi đã kiên cố thiết lập pháp Niệm Thân và vững vàng làm chủ tâm, nếu đi con đường Vắng Lặng (samatha) thì Ðịnh Căn trở thành tám tầng Thiền (samàpatti hay jhàna) trong khi Tuệ Căn trở thành năm Tuệ Giác Cao Thượng (abhinna) [4] như thần thông, hay Năng Lực Siêu Thế v.v... Nếu đi con đường Minh Sát (Vipassanà), Ðịnh Căn trở thành tâm Ðịnh Hư Vô (sunnatà-samàdhi), Ðịnh Vô Ðiều Kiện (animitta-samàdhi) hay Ðịnh Vô Tác ý (appanihita-samàdhi), trong khi Tuệ Căn trở thành năm Thanh Tịnh (visuddhi) liên quan đến trí tuệ [5], Tuệ Giác về ba điều Quán Niệm (anupassanà-nàna) [6], mười Tuệ Minh Sát (vipassanà-nàna) [7], những Tuệ Giác liên quan đến bốn Ðạo và bốn Quả và mười chín Tuệ Ôn Duyệt (paccavekkhana-nàna) [8].

Phần trên đây cho thấy năm chi của Ngũ Căn đồng phát sanh chung như thế nào.
Quyền (Căn - Indriya) được giải thích như sau:

Indassa kammaṃ idriyaṃ - Hành động của vua chúa gọi là quyền.

Indriya mang ý-nghĩa trị vì hay kiểm-soát bởi người cai trị. Nghĩa là người đang trị vì, không có ai có thể đi ngược lại ý muốn của vị ấy..

Ở đây, trọng tâm là sự kiểm-soát tâm bởi năm quyền:

Tín-quyền (saddhindriya).
Tấn-quyền (vīriyindriya).
Niệm-quyền (saṭindriya).
Ðịnh-quyền (samādhindriya).
Tuệ-quyền (paññindriya).

Trong bộ Paṭisambhidā magga, chương Quyền luận-giải (indriyakaṭhā) có giải thích rõ về năm quyền này, tóm lược như sau:

Tín-quyền do ý-nghĩa là hướng tâm tin, đoạn trừ sự vô-tín.
Tấn-quyền do ý-nghĩa là nâng đở, đoạn trừ sự biếng nhác.
Niệm-quyền do ý-nghĩa là trụ vững, đoạn trừ sự dể-duôi.
Ðịnh-quyền do ý-nghĩa là không tán-loạn, đoạn trừ phóng tâm.
Tuệ-quyền do ý-nghĩa là thấy rõ, đoạn trừ vô-minh.

Tín-quyền (saddhindriya)

Nói đến tín-quyền đồng nghĩa nói đến đức-tin nhưng đức-tin không phải là tín-quyền, bao giờ đức-tin lớn mạnh, sung-mãn, có khả-năng cai quản các pháp đồng sanh trong việc hướng tâm tin, khi ấy mới trở thành tín-quyền.

Ðức-tin có hai loại:

- Pakaṭi saddhā: Thường tín là đức-tin thông-thường.
- Bhāvanā saddhā: Tín tu-tập là đức-tin do tu-tập thiền Chỉ hoặc thiền Quán.

Thường tín.

Là loại đức-tin hướng dẫn thực-hành những pháp thiện như bố-thí, trì-giới hay tu-tập thiền với mục-đích gieo duyên, thực-hành thiền Chỉ hay Quán trong một lúc nào đó rồi thôi, quay trở về với đời thường, quay trở về với trần-cảnh, một loại thiền không đem lại sự định tâm nào đáng kể.

Loại đức-tin này ở mức độ nào đó, nó cũng có thể kiểm-soát các pháp hướng tâm tin: như tin quả tốt có từ việc làm như bố-thí, trì-giới... tức là tin vào nghiệp-báo. Nhưng sự kiểm-soát này không đạt đến mức độ an-trú tâm vào đức-tin, nó chỉ ở mức độ bình thường với bố-thí, trì-giới, thiền tập gieo duyên mà không tiến xa hơn nữa.

Nếu không có đức-tin, tâm không bao giờ thiên về những thiện-nghiệp, bản chất tự-nhiên của tâm là vui thích trong việc ác.

Loại thường-tín này luôn nương tựa vào kẻ khác, nương tựa vào kinh-điển, nên nhiều khi bị lạm dụng, dễ trở thành tà-tín, bị các tà-sư lợi dụng, sai sử làm những điều xằng bậy, tạo thành những ác-nghiệp, điển hình là nàng Ciñcā.

Trong thời hiện tại, phần lớn Phật-tử sống với thường-tín vì ít có thời gian học hỏi giáo-lý, đã ít học hỏi thì làm gì có sự chiêm-nghiệm giáo-pháp để phân biệt được "đây là thiện đây là bất-thiện, đây là chân lý đây là phi chân lý, đây là lời Phật dạy đây không phải là lời Phật dạy, lời Phật dạy này có ý-nghĩa như vầy như vầy...". Và thế là, sự bị lợi dụng cũng dễ-dàng phát-sanh.

Nhưng vì sao đức-tin vốn tốt đẹp lại có thể trở thành tệ hại như vậy?

Là vì do y cứ vào kẻ khác mà không có thực-chứng. Cũng ví như con suối trôi chảy về sông lớn do y cứ trên đất nếu đất có nhiều độc chất, nước trong sạch sẽ trở thành nước độc.

Trong Tăng-chi kinh, đức Phật có dạy:

"Này người Kālāma chớ vội tin những gì do bậc Ðạo Sư chỉ dạy.
Chớ vội tin những gì do kinh-điển lưu lại.
Chớ vội tin những gì do truyền-thống.
Chớ vội tin những gì hợp theo suy nghĩ ... hãy dùng trí-tuệ-quán-xét: đây là thiện, đây là bất-thiện ..."

Ngay cả niềm tin đặt vào đối-tượng là Tam-bảo: Phật-Pháp-Tăng cũng cần có trí-tuệ.

Hành-giả cần lưu ý rằng: Nếu tin vào ân-đức Tam-bảo mà không hiểu được ý-nghĩa các ân-đức ấy, thì cũng chỉ là đức-tin bình thường, tuy có quả tốt đẹp hơn so với các quả tốt khác, nhưng cũng chỉ là hạn hẹp.

Tin vào ân-đức Phật ở đây là tin vào trí giác-ngộ pháp giải-thoát của đức Thế-tôn.

Tin vào ân-đức Pháp là tin vào chân lý: Ðây là khổ, đây là nguyên-nhân sanh khổ, đây là sự diệt khổ, đây là con đường đưa đến sự diệt khổ.

Tin vào ân-đức Tăng là tin vào sự chứng-đắc Níp-bàn qua bốn quả: Dự-lưu quả, Nhất-lai quả, Bất-lai quả và Ứng-cúng quả.

Tướng của đức-tin là sự trong sạch và lướt tới, như lời Ngài Nāgasena nói với đức-vua Milinda:

"Tâu Ðại Vương! Ðức-tin có tướng là sự trong sạch và tư cách lướt tới".

Paṭisambhidā-magga có ghi rằng:

"Nên thấy tín-quyền do ý-nghĩa hướng tâm tin, là giới thanh-tịnh, tẩy sạch sự vô-tín ở giai-đoạn đầu".

Chính tin vào sự giác-ngộ, tìm thấy con đường tám chi của Ðức Thế-tôn, nương vào trí suy xét qua khía cạnh thiện, bất-thiện, hành-giả sẽ mạnh dạn đi vào thực-hành bát chánh-đạo, thanh-lọc dần những bất-thiện pháp.

Bấy giờ đức-tin ấy trở thành tín-quyền, đức-tin ấy gìn-giữ giới, hộ trì-giới không bị hư hoại, không bị ô-nhiễm, làm trong sạch giới.

Chính đức-tin bình thường cũng trợ giúp cho sự giữ giới, một người không tin vào quả báo tốt đẹp của bát quan giới, họ sẽ không thọ-trì tám giới.

Mặt khác, tuy tin vào quả lợi-ích của giới-hạnh như năm giới, tám giới, nhưng không giữ gìn năm giới nghiêm túc, cũng như không thọ-trì tám giới, đã nói lên sự thối thất tinh-tấn, đồng thời lui sụt đức-tin hay đức-tin bị ô nhiễm bởi cảnh trần, sự kiểm-soát tâm không còn vững mạnh.

Nói cách khác, sự kiểm-soát tâm do đức-tin bình thường không thể vững-chắc bằng sự kiểm-soát tâm do đức-tin tu-tập bởi pháp thiền.

Cũng ví như người có được hồ nước mát trong sạch, nhưng không hề chịu tắm rửa dù thân người ấy đầy bụi bặm, không hề uống nước dù họ đang khát cháy cổ.

Người ấy chỉ có niềm tin: "đây là nước thiêng đáng cung-kỉnh, cúng dường" và chỉ còn biết quì xuống lễ bái cầu nguyện mà thôi. Thế là, người này vẫn dơ bẩn và khát như bao nhiêu người không có hồ nước mát.

Ðức-tin do tu-tập

Là đức-tin được chứng nghiệm, nó trở nên vững-chắc vì đã thấy rõ, hiểu rõ kết quả của sự thực hành thiện-pháp.

Trong việc chú tâm vào đề mục nghiệp-xứ, tức là đề mục thiền Chỉ hay thiền Quán, đức-tin bình thường không hề có tác-dụng tốt trong sự kiểm-soát tâm, vì tâm luôn có khuynh-hướng chống lại đức-tin này, có khuynh-hướng chùn bước hay quay mặt sang chỗ khác.

Nói cách khác, niềm tin suông, niền tin không có trí-tuệ không ích lợi gì trong sự tu-tập.

Một người tin vào ân-đức tối-thượng nơi đức Phật, Giáo-pháp và đức Tăng, hằng ngày anh ta quì đảnh lễ cầu xin được thoát khổ, chắc chắn sự khổ ấy vẫn đến với anh ta.

Ðức Thế-tôn xác nhận rằng: "Như-lai chỉ là bậc Ðạo-sư, chỉ rõ con đường đi đến sự diệt khổ, người nào tin vào Như-lai, đi theo con đường ấy sẽ đến nơi diệt khổ". (Gaṇakamoggallāna suṭṭa)

Trong Tương-ưng kinh, có ghi lại mẫu đối thoại giữa Ðức Thế-tôn và trưởng-lão Sārīpuṭṭa tóm lược như sau:

- "Này Sārīpuṭṭa! Ngươi có tin không? tín-quyền được tu-tập, được làm cho sung-mãn, thể nhập vào bất tử, lấy bất tử làm mục-đích, lấy bất tử làm cứu cánh.

- Bạch Thế-tôn! Ở đây con không đi với lòng tin của Thế-tôn. Bạch Ðức Thế-tôn! Với những ai không thấy, không hiểu, không chứng ngộ, không đạt đến trí-tuệ, cần phải đi với lòng tin kẻ khác.

Bạch Thế-tôn! Còn những ai, đã thấy đã hiểu đã chứng ngộ, người ấy không còn nghi ngờ, không còn phân vân rằng: Tín-quyền được tu-tập, được làm cho sung mãn, thể nhập vào bất tử, lấy bất tử làm mục-đích, lấy bất tử làm cứu cánh.

- Lành thay! Này Sārīpuṭṭa".

Ðoạn kinh trên cho chúng ta thấy ý-nghĩa rằng: khi chưa chứng đạt Níp-bàn, đức-tin cần nương dựa vào kẻ khác (ở đây là Tam-bảo) đính kèm với trí-tuệ.

Ðức-tin ấy sẽ trở nên vững mạnh, không cần phải nương tựa vào người khác khi đã chứng ngộ Níp-bàn, trở hành tín-quyền kiên-cố bất-động.

Nhưng rõ ràng rằng: Người ấy phải tu-tập làm cho sung-mãn đức-tin ấy. Như vậy, chính đức-tin khi tu-tập, như thực-hành pháp niệm hơi thở chẳng hạn, mở đường cho việc đạt đến sức mạnh, có được năng-lực lớn, đi đến giải-thoát khổ.

Người nương theo đức-tin thực-hành pháp quán niệm-xứ chứng đạt Dự-lưu, được gọi là bậc Tùy tín-hành.

Trong ba mươi bảy pháp trợ-đạo, đức-tin do tu-tập chính là tín-quyền.

Trong lãnh-vực thực-hành những pháp thiền Chỉ hay Quán, đức-tin được hiển-lộ bằng trạng-thái ổn-định tâm khiến tâm không bị giao động do sự vô-tín, hay nghi-hoặc, phân-vân, lưỡng-lự xen lẫn vào.

Ðức-tin có năng-lực áp chế được hoài-nghi, khi niềm tin phát huy sức mạnh, sự nghi-hoặc không có cơ hội sanh lên.

Tướng của đức-tin là tẩy sạch uế nhiễm, hành-giả khi tu-tập có thể nhận biết tướng của đức-tin qua ấn-tướng của đề mục thiền, khi đức-tin an-trụ vững vàng, tâm không bị tán-loạn, ấn-tướng trở nên rõ ràng, không bị mờ nhạt, đó là tướng của đức-tin được hiển-lộ.

Ví như có người muốn dùng nước trong sạch, y múc nước ở hồ ao đem về, cho vào bình lọc với ba lớp đá lớn, đá nhỏ, cát. Lớp đá lớn giữ lại những vật bẩn lớn, , lớp đá nhỏ giữ lại những vật bẩn trung-bình, lớp cát sau cùng sẽ giữ lại những cặn bụi nhỏ li ti và nước chảy qua ba lớp lọc trở nên trong sạch.

Nước ví như tâm, tâm luôn luôn bị những cảnh trần quyến-rũ, xâm nhập vào làm tâm trở nên nhơ bẩn. Lớp đá lớn ví như giới thanh-tịnh, nhờ giới áp chế, ngăn chặn, nên nước thấm qua lớp đá lớn được trong sạch.

Ở giai-đoạn đầu tâm thoát ra những phiền-não thô-thiển do cảnh trần gây nên nhờ giới thanh-tịnh.

Lớp đá nhỏ ví như ý-giới, nước tâm thấm qua ý-giới, khiến các phiền-não khởi lên từ ý như ganh tị, bỏn xẻn, xan tham ... không có cơ hội xâm nhập, tâm lại trong sạch hơn.

Nhưng ý-giới là gì? Chính là sự cố ý (ceṭanā). đức Phật có dạy rằng:

"Ceṭanāhaṃ bhikkhave sīlaṃ vadāmi.

- Này chư tỳ-khưu! Như-lai dạy rằng: Sự cố ý là giới".

Tâm được ý-giới ngăn chặn, là do không có cố ý làm những điều ác, những tư-tưởng bất-thiện không có cơ hội sanh-khởi, hay sanh-khởi lên bị diệt trừ ngay. Lớp cát mịn ví như giới ở vùng tùy-miên, giữ lại những phiền-não vi-tế. Nói cách khác, những phiền-não tùy-miên được ngăn trừ và nước tâm trở nên tinh-khiết. Tư cách làm cho tâm trở nên trong sạch như thế là tướng của đức-tin. khi tâm trở nên trong sạch, các ấn-tướng thiền cũng trở nên trong sáng rõ ràng. Chính tư cách làm cho tâm trong sạch không còn uế nhiễm là tín-quyền.

Nếu hành-giả vẫn duy trì và phát-triển đức-tin tu-tập, ngày càng sung-mãn trong lãnh vực Chỉ hoặc Quán, khả-năng tiêu diệt thân-kiến, hoài-nghi ở vùng tùy-miên có thể đạt được ngay trong kiếp sống này.

Tấn-quyền (vīriyindriya).

Nói đến tấn-quyền nghĩa là nói đến sự tinh-tấn cai quản các pháp đồng sanh, làm chung công việc là nâng đở. Ở mức độ nào đó, tinh-tấn chưa trở thành quyền, tinh-tấn có hai loại là:

Pakaṭi vīriya: Tinh-tấn thông-thường.
Bhāvanā vīriya: Tinh-tấn tu-tập bằng pháp thiền.

Tinh-tấn tu-tập cũng có hai loại:

Kāyika vīriya: Tinh-tấn thuộc về thân, như thọ-trì hạnh đầu đà (dhuṭaṅga) chẳng hạn.
Ceṭasika vīriya: Tinh-tấn thuộc về tâm (là sở-hữu tinh-tấn).

Tinh-tấn bình thường và tinh tấn thuộc về thân có thể nhận ra dễ-dàng. Người có tinh-tấn trong những vấn đề thuộc thế tục, có thể dễ-dàng đạt được tinh-tấn tu-tập.

Nhưng nếu thực-hành thân tinh-tấn như bớt ăn, bớt ngủ nghỉ, kiên-trì theo một thời khóa biểu trong sinh hoạt tu-tập hằng ngày, nhưng không có tâm tinh-tấn, thì kết quả đạt được chẳng có gì đáng kể lắm.

Giống như một học sinh, lòng không muốn học nhưng hằng ngày vẫn cắp sáng đến trường, trong khi học, tâm cậu ta chểnh mảng, lơ đểnh trong các buổi học, cho dù học cả năm, kiến thức của cậu chẳng là bao, thậm chí không muốn nói là một học sinh dốt.

Cũng vậy, tinh-tấn tu-tập ở đây chủ yếu là tâm tinh-tấn, còn thân tinh-tấn là phần trợ giúp cho sự tu-tập càng lúc càng thêm dũng-mãnh.

Người có thân tinh-tấn, nhưng không có tâm tinh-tấn, sự định tâm trong các đề mục như niệm hơi thở ... không thể đạt được, cho dù thời gian thực-hành thiền có dài bao lâu chăng nữa cũng không đạt đến tâm thanh-tịnh.

Bất kỳ loại công việc nào, sẽ nhanh chóng thành-tựu với kết quả khả quan, nếu người thực-hành công việc đúng đắn và thích đáng. "Sự đúng đắn và thích đáng" nói lên ý-nghĩa làm chủ công việc. Trái lại, nếu công việc làm chủ người thực-hiện, công việc ấy khó làm xong, có xong chăng nữa cũng mất nhiều thời gian, "công việc làm chủ" có nghĩa là việc làm không có nhiệt-tâm thật sự, tức là không có tâm tinh-tấn.

Sự tu-tập thiền Chỉ hay Quán, thiếu vắng tâm tinh-tấn, tâm trạng của hành-giả sẽ rơi vào "không thích-thú", đôi khi mong mỏi khóa thiền tập mau kết thúc để trở về nhà, giống như một học sinh mong đến kỳ nghỉ hè để khỏi mang cực hình đi học.

Tâm trạng không thích-thú trong thiền, dẫn đến sự uể-oải trong các oai-nghi, thế là lười-biếng xuất hiện. Lười-biếng xuất hiện, việc thực-hành thiền ngưng đọng, lại làm tăng-trưởng sự lười-biếng.

Khi ấy, tâm hành-giả khởi lên ý nghĩ: "Có lẽ đề mục này không hợp với mình, nên thay đổi đề mục khác". Nhưng dù cho có thay đổi đề mục nào cũng vậy thôi, cũng chẳng có kết quả gì, nó cũng giống như sự khởi động cổ xe, để rồi cổ xe vẫn nằm ì ra đó. Vì sao? Vì nguyên-nhân cần thiết phải có là "Sự tinh-tấn của tâm", nhưng sự tinh-tấn của tâm lại không có.

Người đã thiếu tâm tinh-tấn, ngay cả công việc thế tục, dù có thay đổi từ việc này sang việc khác, từ việc khác sang việc khác nữa, những công việc ấy luôn luôn bị bỏ dở, chẳng có việc nào hoàn tất cả. Chỉ khi nào người ấy thích-thú một công việc nào đó, việc ấy mới chóng thành và có kết quả.

Việc tu-tập thiền cũng vậy, nếu người thực-hành có đủ tinh-tấn về thân lẫn tâm, sự tinh-tấn càng vững mạnh, trở nên sung-mãn, già dặn theo dòng thời gian tu-tập, điều này gọi là tinh-tấn tu-tập.

Và trong 37 pháp trợ giác-ngộ, tinh-tấn tu-tập này được gọi là tấn-quyền.

Tướng (lakkhaṇa) của tấn-quyền là làm biến mất sự uể-oải, dã-dượi, lười-biếng trong lúc hành thiền, đồng thời hiển-lộ ra sự hăng-hái nỗ-lực, thích-thú trong đề-mục và sự chú tâm vào đề-mục ngày càng khắn khít.

Hành-giả cần làm khởi dậy tinh-tấn tu-tập, vì phận-sự của tinh-tấn là trợ giúp, nâng đở các pháp đồng sanh được vững mạnh.

Niệm-quyền (satindriya).

Niệm-quyền với ý-nghĩa là trú-vững. Lẽ thường niệm được an-trú trong các đề mục thiền như: Niệm-xứ, niệm-thân (kāyagasaṭi)... Niệm cũng có hai loại là:

Pakaṭi saṭi: niệm thông-thường.
Bhāvanā saṭi: niệm tu -ập.

Tướng của niệm là sự chú yù. Ðối với các công việc thế tục bình thường, sự chú ý đến cũng là một yếu tố trợ lực cho kết quả tốt đẹp như người thợ thêu, chú ý đến mũi kim đường chỉ khiến các hoa văn của mẫu thêu trở nên xinh đẹp sắc sảo.

Nếu không có sự chú ý, tuy có cố-gắng hoàn tất công việc, công việc ấy cũng không có kết quả vững-chắc, kết quả ấy chỉ tồn tại trong thời gian ngắn rồi trở nên hư hoại.

Không có sự chú ý đồng nghĩa có sự dể-duôi, ngay cả việc học kinh, tụng kinh nếu không có sự chú ý, sẽ không thể học thuộc bài kinh mau chóng, sự tụng kinh sẽ bị vấp váp hay nhầm lẫn.

Niệm thông-thường đã có lợi-ích như thế, nói gì đến niệm tu-tập. Chính bốn pháp niệm-xứ là niệm tu-tập, khởi đầu cho con đường đi đến giác-ngộ, đi đến sự thoát khổ, thành-đạt pháp siêu-thế.

Tướng của niệm sẽ hiển-lộ khi ấn-tướng thiền an-trụ vững, hành-giả thấy rõ từng chi tiết của ấn-tướng cũng như nhận biết từng trạng-thái tâm đối với ấn-tướng.

Gọi là niệm-quyền là sự cai quản, kiểm-soát các pháp-hành đang sanh-khởi trong sự chú ý, bằng trạng-thái trú-vững. Do đó, khi niệm luôn dán chặt vào đề mục khắn khít đến mức độ dường như không thể xa lìa đề mục, tâm luôn kề cận với đề mục, cho dù hành-giả không chú ý nhiều lắm, đề mục thiền vẫn hiển-lộ rõ ràng, đó là tướng của niệm-quyền, ví như sợi dây vàm xỏ mũi con bò được quấn nhiều vòng quanh cọc đóng cứng xuống đất, con bò luôn gần gũi cái cọc.

Cũng cần biết rằng: phận-sự của niệm là ghi nhớ, phận-sự của tưởng là nhớ lại.

Trong sự tu-tập niệm thiền Chỉ, hai pháp niệm -tưởng sẽ hỗ-trợ tích cực cho định, một đằng ghi nhớ (niệm) dấu ấn đề mục, một đằng nhớ lại (tưởng). Khi nhớ lại, rồi lại ghi nhớ, sự-kiện này được lập đi lập lại nhiều lần, khiến ấn-tướng thiền được thường xuyên cọ-xát, càng lúc càng rõ ràng hơn.

Ví như người họa sĩ vẽ tranh, trước tiên anh phát thảo những nét vẽ mờ nhạt, sau đó anh từ từ tô đậm những nét ấy, khiến những nét vẽ trở nên rõ ràng sinh động.

Hoặc ví như đứa bé học viết chữ, cô giáo viết những chữ mẫu cho đứa bé tập viết, đứa bé đồ chữ mẫu, vài chữ đầu tiên, có thể không trùng với nét chữ mẫu nhưng qua vài chữ, nó có thể đồ đúng theo nét chữ mẫu, càng về sau, nét chữ của đứa bé càng gọn, càng nhuần nhuyển và sắc sảo.

Cũng vậy, hành-giả giai-đoạn đầu tu-tập thiền, dấu hiệu của đề-mục chưa hiện rõ, chỉ mờ nhạt, nhờ có tưởng nhớ lại, niệm lại ghi nhớ, ghi nhớ rồi nhớ lại, sự-kiện này được lập đi lập lại nhiều lần, dấu hiệu đề mục thiền được trui rèn, trở nên hiện rõ với hành-giả, khi ấn-tướng thiền đã rõ ràng niệm an-trú vào đó. Khi ấy, tâm không còn loạn-động, không còn xa rời đề mục, đó là lúc niệm chiếm ưu thế, bấy giờ các pháp đồng sanh với niệm cũng trú-vững trong đề mục trở thành niệm-quyền.

Ðịnh-quyền (samādhindriya).

Ðịnh-quyền có ý-nghĩa: làm cho các pháp đồng sanh gom lại, không cho tán-loạn. Ðịnh chưa trở thành quyền, nó có hai loại:

Pakaṭi samādhi: định thông-thường.
Bhāvanā samādhi: định tu-tập.

Ðịnh thông-thường là loại định có trong sát-na tâm (khaṇa) nó gom các pháp trong tâm an-trú trong cảnh sắc, thinh, hương, vị, xúc, hay trong bố-thí, trì-giới ...

Ðịnh tu-tập là cận-định hay định kiên-cố. Ðịnh tu-tập có mãnh lực thiêu đốt các phiền-não nhất là các pháp chướng-ngại, ví như sức nóng mặt trời được gom lại trong tròng kính, có thể phát ra tia lửa thiêu đốt các vật khác.

Tướng của định-quyền được hiển-lộ khi tâm hoàn toàn yên-lặng, không bị xáo động, khi ấy vùng triền (saṃyojāna) yên-lặng, những phiền-não ở vùng triền bị áp chế không thể sanh-khởi.

Ðịnh có sự yên-lặng là thành-tựu, nên khi định phát huy sức mạnh, thì tâm yên-lặng, đồng nghĩa các pháp đồng sanh với định cũng yên-lặng.

Trong thiền Quán nhờ sự loại trừ tâm loạn-động của định, trí quán phát huy sức mạnh như người có mắt dùng mũi kim nhọn xuyên qua lớp vải tùy-miên để sát trừ chấy, rận thân-kiến, hoài-nghi ...

Nói cách khác, định-quyền tích cực trợ giúp cho trí quán xuyên qua một trong ba cửa giải-thoát là: Cửa Vô-tướng (animiṭṭa mukha), cửa Vô-lụy (appaṇihiṭa mukha), cửa Không-tánh (suññaṭa mukha) để sát trừ pháp ngủ-ngầm như thân-kiến, hoài-nghi ... tức là trí-quán xuyên qua một trong ba tướng vô-thường, khổ, vô-ngã để sát-trừ phiền-não.

Nhờ định-quyền phát huy sức mạnh, nước tâm trở nên yên-lặng, tùy theo phước ba-la-mật tích lũy một trong ba tướng hiển-lộ rõ nhất.

Người tích lũy phước ba-la-mật do nương theo đức-tin là bố-thí, trì-giới tướng vô-thường hiển-lộ rõ hơn hai tướng kia, người tích lũy phước ba-la-mật bằng cách tu-tập thiền Chỉ trong quá-khứ là nương theo định là trưởng (adhipaṭi) thì tướng khổ hiện rõ hơn hai tướng kia. Người tích lũy phước ba la mật bằng con đường thiền Quán, tức là dùng trí làm trưởng thì tướng vô-ngã rõ hơn hai tướng kia.

Tuệ-quán hiện-tại bám vào một trong ba tưởng ấy và định-quyền khi ấy trở thành bệ phóng giúp trí-tuệ nhảy vọt từ bờ này sang bờ kia, được gọi là goṭrabhū ñāṇa (tuệ Chuyển-tánh) thế là tuệ-đạo sanh-khởi vị ấy trở thành bậc Dự-lưu.

Tuệ-quyền (paññindriya).

Tuệ-quyền với ý-nghĩa là thấy rõ, trừ diệt sự tối tăm (vô-minh) giống như bốn quyền kia, trí hay tuệ có hai loại:

Pakaṭi ñāṇa: trí thông-thường.
Bhāvanā ñāṇa: trí tu-tập.

Chữ paññā nghĩa là PA + ÑĀ; PA là trọn vẹn hay đúng đắn. ÑĀ: sự biết. Paññā là sự hiểu biết trọn vẹn hay sự hiểu biết đúng.

Thường-trí là loại trí trong thế-tục, trí này rất đa dạng như trí về pháp-học, trí về các loại ngành nghề, trí về ngôn-ngữ ... các nhà khoa-học, các nhà nghiên-cứu ... phát-triển loại trí này ở mức độ cao và có kết quả tốt trong sự thành-đạt thế-tục.

Nói chung, thường-trí bao gồm trí-văn và trí-tư. Trí-tu (bhāvanāmayā paññā) là trí-tuệ sanh lên do tu-tập thiền Chỉ hay thiền Quán.

Tướng của trí-tu là thấu hiểu chân-tướng của pháp hữu-vi.

Tướng của tuệ-quyền được hiển-lộ khi hành-giả thấy được ba tướng vô-thường -khổ -vô-ngã. Trong đó, nếu trí-quyền phát huy sức mạnh thì tướng vô-ngã hiển-lộ rõ nhất so với hai tướng kia.

Nói gọn hơn, khi hành-giả đạt được tuệ Phổ-thông bấy giờ tuệ-quyền được hình thành, tuệ-quyền được hiển lộ khi tướng vô-ngã rõ ràng hơn hai tướng kia, hành-giả nỗ-lực tinh-tấn phát-triển tuệ-quyền càng lúc càng sung-mãn, cuối cùng thành-đạt được giải-thoát khổ.