Thứ Bảy, 23 tháng 7, 2011

Phật Pháp Ứng Dụng
23-7-2011

BẢY GIÁC CHI
(Bojjhaṅga)
- tiếp theo -


4- Hỷ giác-chi (Pīṭi bojjhaṅga)

Thực-tính pháp của hỷ giác-chi là sở-hữu hỷ. Sở-hữu hỷ khác với thọ-hỷ, sở-hữu hỷ là trạng-thái vui thích đối với cảnh, còn thọ-hỷ là thọ lãnh sự vui thích.

Một người đi đường xe mệt mỏi, khát nước, y thấy hồ nước trong mát nên vui mừng, đến nơi y uống nước một cách thích-thú. Trạng-thái vui thích trước khi uống nước là Sở-hữu hỷ, còn uống nước một cách thích-thú là Thọ-hỷ.

Hỷ giác-chi ở đây là nói đến trạng-thái thích-thú, hân-hoan, không đắm-nhiễm trong đối-tượng, có mục-đích dẫn ra khỏi khổ. Hỷ là một đức-tính có ảnh hưởng sâu rộng, bao gồm cả thân tâm. Khi hỷ được tu-tập phát-triển, thân hành-giả có cảm giác nhẹ nhàng hay cảm thấy thân tràn đầy sinh lực, sẵn-sàng làm bất kỳ việc gì, không hề e-ngại khó khăn, mệt nhọc.

Người thiếu sự hân-hoan, không thể vượt qua con đường giác-ngộ để thành-đạt cứu cánh giải-thoát, vì không hân-hoan, nên không thể kham-nhẫn, chịu-đựng trước những chướng-ngại, khó khăn. Ví như người đi lạc trong rừng đầy hiểm-họa, chợt nhìn thấy con đường dẫn ra khỏi rừng, nếu y hân-hoan, sẽ nhanh chóng vượt ra khỏi rừng trước khi hiểm-họa xảy đến. Trái lại, nếu y không hân-hoan, sẽ uể-oải lê bước, y khó có thể ra khỏi rừng trước khi hiểm-họa xảy đến.

Một nỗi buồn man mác, một trạng-thái lãnh-đạm thờ ơ, một sự không hân-hoan thích-thú trước pháp thiền Chỉ hay thiền Quán sẽ dẫn đến một sự bất-mãn, không toại-nguyện. Ðó là hiển tướng của trạng-thái thiếu hay không có pháp hỷ. Như vậy, pháp hỷ là một điều rất cần thiết để bước vào một cuộc hành-trình chinh phục đau-khổ, thoát ra khổ luân-hồi.

Hành-giả là người có nguyện vọng thành-đạt sự giác-ngộ, giải-thoát khỏi những ràng buộc vào cuộc lăn trôi vô định của luân-hồi, cần phải cố-gắng trau dồi pháp hỷ này. Không ai có thể ban hạnh-phúc cho ai cả, mỗi người tự xây hạnh-phúc bằng sự cố-gắng của chính mình, tích cực suy-niệm làm cho tâm an-trụ, chính sự an-trụ tâm, hỷ-lạc mới sanh lên.

Có hai loại hỷ: hỷ hướng về bên ngoài, hỷ hướng về bên trong. Hỷ hướng về bên ngoài là trạng-thái thích-thú trước năm trần-cảnh, đây là loại hỷ cần nên từ bỏ. Hỷ hướng về bên trong là trạng-thái thích-thú trước những pháp đáng hài lòng, đáng thích ý.

Loại hỷ này cũng có hai loại:

- Loại hỷ thích-thú trước pháp đáng thích-thú, liên-hệ đến dục, liên-hệ đến bất-thiện pháp, loại hỷ này cần xa lánh, cần từ bỏ, cần đoạn-trừ.

- Loại hỷ thích-thú trước pháp đáng thích-thú, liên-hệ đến thiện-pháp, loại hỷ này nên thân-cận, nên tu-tập, nên làm cho sung-mãn.

Và loại hỷ thân-cận với thiện-pháp, là điềm báo cho hỷ giác-chi sanh-khởi. Do đó, không nên tìm sự thích-thú, hân-hoan ở bên ngoài, cho dù chỉ chút ít nhỏ nhoi, cảnh vật bên ngoài cũng ảnh hưởng không ít đến tâm.

5- Tịnh giác-chi (passaddhi sambojjaṅga)

Chữ Passaddhi từ chữ Pa + ngữ căn Sambh, nghĩa là an-tịnh, đặc-tính của Passaddhi là làm dịu sự nóng bức do phiền-não dục (kilesadara vūpasam) gây ra. Passaddhi đối với tâm giống như bóng mát đối với người bị ánh-nắng mặt trời chiếu rọi.

Passaddhi là một sở-hữu đối trị với phóng-dật. Passaddhi có hai là: kāya passaddhi (tịnh-thân) và ciṭṭa passaddhi (tịnh-tâm). Kāya (thân) ở đây không có nghĩa là thể-xác, thân ở đây chỉ cho các sở-hữu, thành-phần của tâm. Nói cách khác, kāya chỉ cho thọ-uẩn, hành-uẩn (ngoại-trừ kāyapassaddhi) và tưởng-uẩn cùng có mặt với tâm.

Kāyapassaddhi (tịnh-thân) là trạng-thái an-tịnh của cácsở-hữu cùng hiện-hữu với tâm. Còn ciṭṭa passaddhi (tịnh-tâm) là trạng-thái an-tịnh của tâm.

Tịnh có thể ví như người đang bị nóng bức, được cơn mưa tưới xuống, trở nên mát-mẽ, thoải-mái, dễ chịu. Làm cho tâm an-tịnh là việc khó thực-hiện, tâm luôn luôn chao-động có khuynh-hướng không bao giờ ở yên một chỗ. Tâm ví như cá vớt ra khỏi mặt nước, ném trên mặt đất.

Vāriyo’va ṭhale khiṭṭo
Okamokaṭa ubhaṭo
Pariphandaṭi’ midaṃ ciṭṭaṃ
Māradheyyaṃ pahāṭave.

"Cá bị vớt lên khỏi nước và vứt trên đất khô như thế nào,
tâm dao-động cũng dường thế ấy.
Vậy phải cách xa cảnh giới của dục-vọng". (Pháp Cú 34)

Sở dĩ tâm không được an-tịnh là do có tham, sân, si ngự-trị, chính tham, sân, si làm cho tâm bất an. Nhưng tham, sân, si ngự-trị được tâm là do đâu? Do dục. Nói cách khác, tịnh có được là do xa lìa dục (vọng). Dục (vọng) được xa lìa khi hành-giả chứng được sơ-thiền, cho dù hành-giả có đạt đến cận-định, tâm tuy yên-lặng nhưng chưa an-tịnh hoàn toàn vì còn liên-hệ đến dục.

Cũng nên phân biệt dục-lạc và dục. Dục-lạc là những khoái-lạc do năm trần-cảnh mang lại, còn dục là những gì thuộc về năm trần-cảnh mà chúng-sanh muốn thụ-hưởng nó (kāma paribhuñjaṭi -paribhuñjaṭi là ăn uống). Ðược gọi là dục-vọng bởi vì những trần-cảnh có đặc-tướng vui ít nguy hại nhiều.

An-tịnh lại là một điều khác của căn-bản phạm-hạnh, chỉ khi nào tâm được an-tịnh, khi ấy tâm mới được điều-phục.

Tâm được an-tịnh khi được uốn nắn trong vòng trật-tự, trong sự tiến-bộ chân-chánh, khi ấy tâm mới trở nên hữu-ích cho mình và cho người. Cái tâm náo-động, bất-chánh, hành-xử vô trật-tự đó mới chính là hiểm-họa cho mình lẫn cho người. Như thế, không nên gọi là "tâm bị trói-buộc bởi pháp, bởi giới-hạnh" được.

Giả sử rằng: Nếu tâm bị trói-buộc như thế mà đưa đến giác-ngộ, đưa đến tịnh-lạc thì tâm cũng nên bị trói-buộc, còn hơn tâm tự-do phóng túng để rồi rơi vào đọa lạc.

Thật ra, chính đức Phật dạy rằng: "Chánh-pháp còn phải bỏ huống chi là tà-pháp". (Tăng-chi kinh)

Trong bài kinh Raṭṭhavivāṭa suṭṭa (kinh Trạm-xe) trong Trung-bộ, Ngài Punna manṭānipuṭṭa đáp lời của trưởng-lão Sārīpuṭṭa rằng:

"Anupādā pari nibbānaṭṭhaṃ kho āvuso.
Bhagavaṭī brahmacariyaṃ vussaṭīṭi:

- Này hiền-giả! sống đời sống phạm-hạnh dưới sự chỉ dẫn của Ðức Thế-tôn với mục-đích không nắm giữ trước viên tịch (parinibbāna)".

Như vậy, tâm an-tịnh là giai đoạn tu tập, khi thành-đạt mục đích giải-thoát hoàn toàn, tâm tự nhiên không còn nắm giữ thiện hay bất thiện nữa.

Nhưng giữ được tâm an-tịnh trước những chướng-ngại quả là khó, chính cái đức-độ khó có được ấy, mới là điều đáng cho hành-giả tận-lực cố-gắng để thành-tựu.

6- Ðịnh giác-chi (Samàdhi sambojjhaṅga).

Ðịnh là sở-hữu ekaggaṭā (Nhất-hành) nghĩa là an-trú vào một cảnh, tương-tự như niệm, tinh-tấn, tùy công-năng của nó trong lãnh-vực nào, nó mang tên theo lãnh-vực ấy, như định-quyền, định-lực, định giác-chi, chánh-định.

Ðịnh đi theo tuệ Minh-sát có tên gọi là Không-định là loại định an-trú vào tướng vô-ngã, Vô-tướng định là loại định an-trú vào tướng vô-thường, Vô-nguyện định là loại định an-trú vào tướng khổ.

Thông thường, Định là dùng để chỉ cho thiền Chỉ, là loại định trong tám tầng thiền: 4 tầng thiền hữu-sắc và 4 tầng thiền vô-sắc. Trong lãnh-vực này có ba loại định là:

1. Tiên -khởi định.
2. Cận -định.
3. An-chỉ định.

Tiên-khởi định là loại định thông-thường, trụ vào ấn-tướng ban đầu (còn có tên gọi là sát-na định -khaṇa samādhi). Cận-hành định là loại định già mạnh có được bốn chi-thiền là: tầm, tứ, hỷ, lạc. An-chỉ định là chỉ cho tám tầng thiền mà hành-giả chứng đạt được.

Tiên-khởi định và cận-hành định có thể gom vào cận-định. Ðiều-kiện giúp cho định sanh-khởi tốt đẹp là sự an-tịnh (passaddhi), chỉ có tâm an-tịnh mới dễ-dàng trụ trong đề mục thiền.

Tâm có an-tịnh và trụ mới thấy sự vật đúng theo chân-tướng, như nước yên-lặng không còn xao-động, hành-giả mới thấy rõ những gì ở đáy chén nước.

Ðịnh là trạng-thái ổn-định vững-chắc của tâm, ví như ngọn lửa không chao-động ở nơi không có gió. Khi tâm đã trú-vững trong đề mục thì không thể có những ngọn gió năm trần-dục được, nên đức Phật gọi trạng-thái sơ-thiền là: "Trạng-thái hỷ-lạc có tầm có tứ, do ly-dục, ly bất-thiện pháp sanh". Trạng-thái nhị-thiền là: "Trạng-thái hỷ-lạc không tầm không tứ, do định sanh...".

Nhưng đó không phải là định giác-chi, vì nó không hướng về giải-thoát, bao giờ định hướng về giác-ngộ đạo-quả, hướng về Níp-bàn giải-thoát khổ, khi ấy mới gọi là định giác-chi.

Trong kinh tạng có ghi câu chuyện: Trưởng-lão Sārīpuṭṭa theo lời thỉnh-cầu của ông Bà-la-môn lâm trọng-bệnh sắp mệnh-chung. Trưởng-lão Sārīpuṭṭa thuyết-giảng pháp thoại hướng dẫn Bà-la-môn ấy an-trú vào sơ-định trước khi lâm-chung. Sau khi mệnh-chung ông Bà-la-môn tái-sanh về cõi sơ-thiền là vị phạm-thiên. Nghe được câu chuyện, đức Phật rầy Ngài Sārīpuṭṭa: Vì sao chỉ an-trú vị ấy vào cảnh giới phạm-thiên, trong khi vị ấy có khả-năng chứng-đắc đạo-quả.

Dĩ nhiên, hành-giả muốn tu-tập định giác-chi, trước hết phải tu-tập định-nhập, tức là phải lìa bỏ trong tâm những bất-thiện pháp, không đắm-nhiễm trong dục. Không có bất-thiện pháp, đồng nghĩa là thiện-pháp, là làm bạn với thiện. Làm bạn với thiện là điều báo hiệu cho định giác-chi sanh-khởi và tăng-trưởng.

Ðiềm báo hiệu định tu-tập xuất hiện (tức sơ-định, nhị-định...) là giới thanh-tịnh. Hành-giả muốn trau dồi tâm định, phải có sự quyết tâm trau dồi giới-hạnh được tinh nghiêm, chính giới-hạnh nuôi dưỡng đời sống tâm linh ngày càng trong sáng như vỏ ốc xa-cừ được đánh bóng. Tâm được trau dồi sẽ tiêu trừ những khát-vọng, thanh-lọc những ô-nhiễm làm tâm trở nên tinh-khiết. Tâm không bị năm trần-cảnh làm loạn-động, đó là tâm định. Khi định được phát-triển cao độ, dầu ở trong hoàn cảnh trái nghịch nào cũng không làm nó lay động, nghiêng ngã.

7- Xả giác-chi (Upekkhā sambojjhaṅga).

Upekkhā ở đây đồng nghĩa với ṭaṭra majjhaṭṭaṭā. Ðặc-tính của upekkhā là xem đối-tượng một cách vô-tư, không thiên-lệch, ví như người đánh xe khéo điều khiển cặp ngựa song hành luôn đi ngang hàng nhau.

Xả là trạng-thái quân-bình tâm, không phải là sự lãnh-đạm dững dưng. Trạng-thái tâm quân-bình là kết quả từ tâm định tĩnh.

Lẽ thường, phàm-nhân khó tránh khỏi chao-động khi phải va chạm thường xuyên vào những cảnh thăng-trầm của cuộc sống. Người trau dồi đức tánh xả này, sẽ không cảm thấy phiền-lụy nhiều trước những cảnh thăng-trầm của cuộc đời, bình thản trước cảnh được hay mất của thế-gian.

Nhiều người không chịu đựng nỗi trước những hạnh-phúc bất ngờ xảy đến khiến phải ngất lịm, cũng như vật-vả khóc than, phiền-muộn khi tài-sản vật-chất bất ngờ "đội nón ra đi". Thậm chí, một lời hứa hảo-huyền về lợi-đắc cũng làm cho họ ôm ấp hy-vọng, khi lời hứa ấy theo gió đi xa, họ lại sầu-khổ, ta-thán. Họ sầu-khổ vì mất món lợi tưởng-tượng, một lợi-lộc xét ra không do họ tạo ra, họ mất cái chưa có trong tay, thế mà họ còn phiền-muộn thì nói gì đến những tài-sản họ có được. Nếu mất những cái họ có trong tay, họ có cảm giác "Chết đi được". Một lời khen xã-giao gọi là, mang đến vui mừng hớn hở cho họ, một lời vô-tình chê trách, họ ôm trong lòng nổi hận-thù truyền-kiếp.

Tất cả những điều ấy, nói lên trạng-thái tâm không được quân-bình.

Trái lại, người có trau dồi tâm quân-bình, sẽ có cái nhìn vô-tư, thản-nhiên trước những biến chuyển của thế-gian, trầm-tĩnh trước những lời khen ngợi, tự-tại trong sự dè bỉu chê bai (nếu sự chê trách ấy không đúng và có ác ý). Ðó là người làm chủ được mình, làm chủ được tâm.

"Selo yaṭhā ekaghano
Vāṭena na samīraṭi
Evaṃ nindāpasaṃsāsu
Na samiñjanṭi paṇḍiṭā
.

Như tảng đá vững-chắc,
không rung chuyển trước gió.
Dường thế ấy, bậc thiện-trí không bị lời tán dương hay chê trách làm chao-động
".(Pháp Cú 81)


trích ĐƯỜNG ĐẾN GIÁC NGỘ. TK Chánh Minh