Thứ Năm, 24 tháng 11, 2011

Tam Tạng Trích Giảng
Phật Tông (Buddhavamsa)

THỌ KÝ LẦN ĐẦU TIÊN






PHẦN NÓI VỀ SUMEDHA

[2]

Kappe ca satasahasse - caturo ca asaṅkhiye

amaraṃ nāma nagaraṃ - dassaneyyaṃ manoramaṃ. (1)

Vào thuở một trăm ngàn kiếp[1] và bốn a-tăng-kỳ, có thành phố tên Amara[2] là đáng nhìn, xinh xắn.

Dasahi saddehi avivittaṃ - annapānasamāyutaṃ

hatthisaddaṃ assasaddaṃ - bherisaṅkharathāni ca.

(Thành phố này) dồi dào thức ăn nước uống và nhộn nhịp với mười loại âm thanh như tiếng voi, tiếng ngựa, tiếng trống, tiếng tù và vỏ ốc, tiếng xe cộ.

Khādatha pīvatha ceva - annapānena ghositaṃ (2)

nagaraṃ sabbaṅgasampannaṃ - sabbakammamupāgataṃ.

Và còn được giới thiệu về thức ăn nước uống: “Xin hãy nhai, xin hãy uống.” Thành phố được đầy đủ về mọi yếu tố và thành tựu tất cả hoạt động về nghề nghiệp.

Sattaratanasampannaṃ - nānājanasamākulaṃ

samiddhaṃ devanagaraṃva - āvāsaṃ puññakamminaṃ. (3)

(Thành phố) có đầy đủ bảy loại châu báu, đông đảo với đủ hạng người, thịnh vượng, tương tợ như thành phố của chư thiên, là nơi cư ngụ của những người có được thiện nghiệp.

Nagare amaravatiyā - sumedho nāma brāhmaṇo

anekakoṭisannicayo - pahūtadhanadhaññavā. (4)

Vị bà-la-môn tên Sumedha ở thành phố Amaravatī là có được nhiều koṭi[3] tiền tích lũy, có tài sản và lúa gạo dồi dào.

Ajjhāyako mantadharo - tiṇṇaṃ vedāna pāragū

lakkhaṇe itihāse ca - saddhamme pāramiṃ gato. (5)

Là vị chuyên về phúng tụng, nắm vững chú thuật, thông thạo ba bộ Vệ Đà, đã đạt đến sự toàn hảo về khoa tướng số, về truyền thuyết, và về phận sự chánh yếu (của vị bà-la-môn).

Rahogato nisīditvā - evaṃ cintesahantadā

dukkho punabbhavo nāma - sarīrassa pabhedanaṃ. (6)

Khi ấy, sau khi ngồi xuống ở nơi thanh vắng ta[4] đã suy nghĩ như vầy: “Sự tái sanh, sự tiêu hoại của xác thân là khổ.

Sammohaṃ maraṇaṃ dukkhaṃ - jarāya abhimadditaṃ

jātidhammo jarādhammo - byādhidhammo cahantadā

ajaraṃ amataṃ khemaṃ - pariyesissāmi nibbutiṃ. (7)

Sự mê mờ, sự chết, bị đày đọa bởi sự già là khổ. Và trong khi còn có trạng thái sanh, trạng thái già, trạng thái bệnh hoạn, ta sẽ tầm cầu sự không già, sự không chết, sự an ổn, Niết Bàn.

Yannūnimaṃ pūtikāyaṃ - nānākuṇapapūritaṃ

chaḍḍayitvāna gaccheyyaṃ - anapekkho anatthiko. (8)

Hay là ta nên từ bỏ tấm thân hôi thối chất chứa đủ loại chất phế thải này và trở thành người không vướng bận, không mong cầu?

Atthi hehiti so maggo - na so sakkā na hetuye

pariyesissāmi taṃ maggaṃ - bhavato parimuttiyā. (9)

Đạo lộ ấy là có và sẽ xuất hiện. Đạo lộ ấy không thể không có nguồn cội. Ta sẽ tầm cầu đạo lộ ấy để hoàn toàn giải thoát khỏi hiện hữu.

Yathāpi dukkhe vijjante - sukhaṃ nāmapi vijjati

evaṃ bhave vijjamāne - vibhavo icchitabbako. (10)

Cũng giống như khi khổ đau được tìm thấy thì điều gọi là an lạc cũng được tìm thấy, tương tợ như thế khi hiện hữu được tìm thấy thì phi hữu cũng là điều cần được mong mỏi.

Yathāpi uṇhe vijjante - aparaṃ vijjati sītalaṃ

evaṃ tividhaggi vijjante - nibbānaṃ icchitabbakaṃ. (11)

Cũng giống như khi sự nóng được tìm thấy thì điều khác là sự lạnh cũng được tìm thấy, tương tợ như thế khi ba loại lửa (tham sân si) được tìm thấy thì Niết Bàn cũng là điều cần được mong mỏi.

Yathāpi pāpe vijjante - kalyāṇamapi vijjati

evameva jāti vijjante - ajāti icchitabbakaṃ. (12)

Cũng giống như khi điều ác được tìm thấy thì điều thiện cũng được tìm thấy, tương tợ y như thế khi sanh được tìm thấy thì vô sanh cũng là điều cần được mong mỏi.

Yathā gūthagato puriso - taḷākaṃ disvāna pūritaṃ

na gavesati taḷākaṃ - na doso taḷākassa so. (13)

Giống như người bị dính phẩn nhìn thấy hồ nước đầy không tìm đến hồ nước ấy; việc sai trái ấy không phải là của hồ nước.

Evaṃ kilesamaladhovanaṃ - vijjante amatantaḷe

na gavesati taḷākaṃ - na doso amatantaḷe. (14)

Tương tợ như vậy, khi hồ nước Bất Tử được tìm thấy cho việc gột rửa bợn nhơ phiền não, người không tìm đến hồ nước thì không phải là điều sai trái của hồ nước Bất Tử.

Yathā arīhi pariruddho - vijjante gamanaṃpathe

na palāyati so puriso - na doso añjasassa so. (15)

Giống như người bị vây hãm xung quanh bởi những kẻ đối nghịch, khi con đường thoát ra được tìm thấy, người ấy không tẩu thoát thì việc sai trái ấy không phải là của con đường.

Evaṃ kilesapariruddho - vijjamāne sive pathe

na gavesati taṃ maggaṃ - na doso sivamañjase. (16)

Tương tợ như vậy, người bị vây hãm toàn diện bởi phiền não, khi đạo lộ thánh thiện được tìm thấy, người không chịu tìm đến đạo lộ ấy thì không phải là điều sai trái của đạo lộ thánh thiện.

Yathāpi byādhito puriso - vijjamāne tikicchake

na tikicchāpeti taṃ byādhiṃ - na so doso tikicchake. (17)

Cũng giống như người bị bệnh, khi vị thầy thuốc được tìm thấy, người không để cho (vị thầy thuốc) chữa trị căn bệnh ấy thì việc sai trái ấy không phải là của vị thầy thuốc.

Evaṃ kilesabyādhīhi - dukkhito paripīḷito

na gavesati ācariyaṃ - na so doso vināyake. (18)

Tương tợ như vậy, người bị khổ đau bị hành hạ toàn diện bởi những căn bệnh phiền não (nhưng) không chịu tìm đến vị thầy thì điều sai trái ấy không phải là của vị thầy hướng dẫn.

Yannūnimaṃ pūtikāyaṃ - nānākuṇapapūritaṃ

chaḍḍayitvāna gaccheyyaṃ - anapekkho anatthiko.[5]

Hay là ta nên từ bỏ tấm thân hôi thối chất chứa đủ loại chất phế thải này và trở thành người không vướng bận, không mong cầu?

Yathāpi kuṇapaṃ puriso - kaṇṭhe bandhaṃ jigucchiyaṃ

mocayitvāna gaccheyya - sukhī serī sayaṃ vasī. (19)

Cũng giống như người sau khi rủ bỏ thây chết ghê tởm vướng ở cổ có thể đạt đến an lạc, sống tự tại, theo ý muốn.

Tathevimaṃ pūtikāyaṃ - nānākuṇapasañcayaṃ

chaḍḍayitvāna gaccheyyaṃ - anapekkho anatthiko. (20)

Tương tợ y như thế, sau khi từ bỏ tấm thân hôi thối tập hợp đủ loại chất phế thải này ta có thể trở thành người không vướng bận, không mong cầu.

Yathā uccāsaṭhānamhi - karīsaṃ naranāriyo

chaḍḍayitvāna gacchanti - anapekkhā anatthikā. (21)

Giống như những người nam hoặc nữ sau khi thải bỏ phẩn ở nhà tiêu rồi ra đi không vướng bận, không mong cầu.

Evamevāhaṃ imaṃ kāyaṃ - nānākuṇapapūritaṃ

chaḍḍayitvāna gacchissaṃ - vaccaṃ katvā yathā kuṭiṃ. (22)

Tương tợ y như thế, sau khi từ bỏ tấm thân được chất chứa đủ loại phế thải này ta sẽ ra đi giống như người sau khi đi tiêu rồi thì (rời khỏi) nhà xí.

Yathāpi jajjaraṃ nāvaṃ - paluttaṃ udakagāhiniṃ

sāmikā chaḍḍayitvāna - anapekkhā anatthikā. (23)

Cũng giống như những chủ nhân sau khi quăng bỏ con thuyền cũ kỹ, rã rời, có sự rò rỉ nước, thì không còn vướng bận, không mong cầu.

Evamevāhaṃ imaṃ kāyaṃ - navacchiddaṃ dhuvassavaṃ

chaḍḍayitvāna gacchissaṃ - jiṇṇanāvaṃva sāmikā. (24)

Tương tợ y như thế, sau khi từ bỏ tấm thân có chín khiếu thường xuyên tiết ra chất dơ này, ta sẽ ra đi giống như những chủ nhân quăng bỏ con thuyền cũ kỹ.

Yathā puriso corehi - gacchanto bhaṇḍamādiya

bhaṇḍacchedabhayaṃ disvā - chaḍḍayitvāna gacchati. (25)

Giống như người mang theo hàng hóa đi cùng bọn trộm cướp, sau khi nhận thấy nỗi lo sợ bởi việc cướp giật hàng hóa liền tách biệt ra đi.

Evameva ayaṃ kāyo - mahācorasamo viya

pahāyimaṃ gamissāmi - kusalacchedanābhayā. (26)

Tương tợ y như thế, thân này được ví như tương đương với kẻ cướp lớn, ta sẽ chối bỏ thân này và ra đi, không còn nỗi sợ hãi về việc bị cướp đoạt thiện pháp.”

Evāhaṃ cintayitvāna - nekakoṭisataṃ dhanaṃ

nāthānāthānaṃ datvāna - himavantaṃ upāgamiṃ. (27)

Sau khi suy nghĩ như thế, ta đã bố thí của cải hàng trăm koṭi [6] đến những người có nơi nương tựa lẫn những người không nơi nương tựa rồi đã đi đến Hy-mã-lạp sơn.

Himavantassāvidūre - dhammiko nāma pabbato

assamo sukato mayhaṃ - paṇṇasālā sumāpitā. (28)

Ở không xa Hy-mã-lạp sơn có ngọn núi tên là Dhammika, khu ẩn cư khéo được tạo lập dành cho ta có ngôi nhà lá khéo được xây dựng.[7]

Caṅkamaṃ tattha māpesiṃ - pañcadosavivajjitaṃ

aṭṭhaguṇasamupetaṃ - abhiññābalamāhariṃ. (29)

Ở nơi ấy ta đã tạo lập đường kinh hành không vi phạm vào năm điều sai trái.[8] Ta đã đạt được năng lực của thắng trí hội đủ tám đức tính.[9]

Sāṭakaṃ pajahiṃ tattha - navadosamupāgataṃ

vākacīraṃ nivāsesiṃ - dvādasaguṇamupāgataṃ. (30)

Ở nơi ấy ta đã quăng bỏ tấm vải choàng liên quan đến chín điều sai trái.[10] Ta đã mặc y phục vỏ cây có được mười hai đức tính.[11]

Aṭṭhadosasamākiṇṇaṃ - pajahiṃ paṇṇasālakaṃ

upāgamiṃ rukkhamūlaṃ - guṇehi dasahupāgataṃ. (31)

Ta đã từ bỏ ngôi nhà lá dính líu tám điều sai trái.[12] Ta đi đến ngụ ở gốc cây có được mười đức tính.[13]

Vāpitaṃ ropitaṃ dhaññaṃ - pajahiṃ niravasesato

anekaguṇasampannaṃ - pavattaphalamādayiṃ. (32)

Ta đã hoàn toàn từ bỏ mễ cốc đã được gieo đã được trồng. Ta đã thọ dụng trái cây rơi rụng được hội đủ vô số đức tính.

Tatthappadhānaṃ padahiṃ - nisajjaṭṭhānacaṅkame

abbhantaramhi sattāhe - abhiññābalapāpuṇiṃ. (33)

Tại nơi ấy, ta đã ra sức nỗ lực trong khi ngồi, đứng, đi kinh hành. Trong thời gian bảy ngày, ta đã đạt được năng lực của thắng trí.

Evaṃ me siddhippattassa - vasībhūtassa sāsane

dīpaṅkaro nāma jino - uppajji lokanāyako. (34)

Trong khi ta đạt được sự thành tựu (năm thắng trí, ngũ thông) và có sự an trú trong pháp tu tập (của đạo sĩ), đấng Chiến Thắng tên Dīpaṅkara, vị Lãnh Đạo Thế Gian, đã hiện khởi.

Uppajjante ca jāyante - bujjhante dhammadesane

caturo nimitte nāddasaṃ - jhānaratisamappito. (35)

Đắm chìm trong sự thỏa thích của thiền, ta đã không chứng kiến bốn điều báo hiệu sự nhập thai, đản sanh, giác ngộ, và thuyết giảng Giáo Pháp.

Paccantadesavisaye - nimantetvā tathāgataṃ

tassa āgamanaṃ maggaṃ - sodhenti tuṭṭhamānasā. (36)

Sau khi thỉnh mời đức Như Lai, những người dân ở khu vực biên địa với tâm tư mừng rỡ đã dọn sạch sẽ con đường ngự đến của Ngài.

Ahantena samayena - nikkhamitvā sakassamā

dhunanto vākacīrāni - gacchāmi ambare tadā. (37)

Vào lúc bấy giờ, ta rời khỏi khu ẩn cư của bản thân rồi vừa đi ở trên không trung vừa chỉnh lại bộ y phục bằng vỏ cây.

Vedajātaṃ janaṃ disvā - tuṭṭhahaṭṭhaṃ pamoditaṃ

orohitvāna gaganā - manusse pucchi tāvade. (38)

Nhìn thấy dân chúng tràn ngập niềm phấn khởi, hớn hở, vui mừng, hoan hỷ, ta đã từ không trung đáp xuống rồi lập tức hỏi mọi người rằng:

Tuṭṭhahaṭṭho pamudito - vedajāto mahājano

kassa sodhiyatī maggo - añjasaṃ vaṭumāyanaṃ. (39)

Dân chúng được tràn ngập niềm phấn khởi, hớn hở, vui mừng, hoan hỷ. Đạo lộ, con đường, lối đi, ngõ vào được dọn sạch sẽ cho ai vậy?

Te me puṭṭhā viyākaṃsu - buddho loke anuttaro

dīpaṅkaro nāma jino - uppajji lokanāyako

tassa sodhiyate maggo - añjasaṃ vaṭumāyanaṃ. (40)

Được ta hỏi, họ đã đáp rằng: “Đức Phật, bậc Tối Thượng ở thế gian, đấng Chiến Thắng, vị Lãnh Đạo Thế Gian tên là Dīpaṅkara đã hiện khởi. Đạo lộ, con đường, lối đi, ngõ vào được dọn sạch sẽ cho vị ấy.

Buddhoti mama sutvāna - pīti uppajji tāvade

buddho buddhoti kathayanto - somanassaṃ pavedayiṃ. (41)

Khi nghe rằng: “Đức Phật,” pháp hỷ đã sanh khởi đến ta ngay lập tức. Ta đã bày tỏ tâm hoan hỷ, thốt lên rằng: “Đức Phật! Đức Phật!

Tattha ṭhatvā vicintesiṃ - tuṭṭho saṃviggamānaso

idha vījāni ropissaṃ - khaṇo ve mā upaccagā. (42)

Đứng tại nơi ấy, với tâm tư hớn hở rộn ràng ta đã suy nghĩ rằng: “Ta sẽ gieo các nhân lành ở nơi đây (đức Phật). Đương nhiên chớ để thời khắc trôi đi.

Yadi buddhassa sodhetha - ekokāsaṃ dadātha me

ahaṃpi sodhayissāmi - añjasaṃ vaṭumāyanaṃ. (43)

(Nói rằng): “Nếu các người dọn sạch sẽ vì đức Phật. Xin các người hãy nhường cho tôi một khu vực. Tôi cũng sẽ dọn sạch sẽ con đường, lối đi, ngõ vào.”

Adaṃsu te mamokāse - sodhetuṃ añjasaṃ tadā

buddho buddhoti cintento - maggaṃ sodhemahantadā. (44)

Khi ấy, họ đã nhường cho ta dọn sạch sẽ con đường ở một khu vực. Rồi ta làm sạch sẽ con đường trong lúc nghĩ tưởng đến “Đức Phật! Đức Phật!

Aniṭṭhite mamokāse - dīpaṅkaro mahāmuni

catūhi satasahassehi - chaḷabhiññehi tādihi

khīṇāsavehi vimalehi - paṭipajji añjasaṃ jino. (45)

Khi khu vực của ta còn chưa hoàn tất, bậc Đại Hiền Triết Dīpaṅkara, đấng Chiến Thắng, đã bước lên con đường cùng với bốn trăm ngàn vị Lậu Tận không còn ô nhiễm, có sáu thắng trí (lục thông) như thế ấy.

Paccuggamanā vattanti - vajjanti bheriyo bahū

āmoditā naramarū - sādhukāraṃ pavattayuṃ. (46)

Nhiều người di chuyển từ phía đối diện. Họ vỗ kêu những chiếc trống. Chư thiên và nhân loại vui mừng đã thốt lên tiếng “Lành thay!

Devā manusse passanti - manussā passanti devatā

ubhopi te pañjalikā - anuyanti tathāgataṃ. (47)

Chư thiên ngắm nhìn loài người. Loài người nhìn ngắm chư thiên. Cả hai nhóm ấy cũng đã chắp tay lên đi theo sau đức Như Lai.

Devā dibbehi turiyehi - manussā mānusakehi ca

ubhopi te vajjayantā - anuyanti tathāgataṃ. (48)

Chư thiên với nhạc khí thiên đình, loài người với nhạc khí của nhân gian, cả hai nhóm ấy vừa trình tấu vừa đi theo sau đức Như Lai.

Dibbaṃ mandāravaṃ pupphaṃ - padumaṃ pārichattakaṃ

disodisaṃ okiranti - ākāse nabhagā marū. (49)

Ở trên bầu trời, chư thiên di chuyển trong không gian rải rắc hoa mạn-đà-la, hoa sen, hoa san hô của thiên đình xuống khắp các phương hướng.

Dibbaṃ candanacuṇṇañca - varagandhañca kevalaṃ

disodisaṃ okiranti - ākāse nabhagā marū.

Ở trên bầu trời, chư thiên di chuyển trong không gian rải rắc toàn là bột gỗ đàn hương và hương thơm quý báu của thiên đình xuống khắp các phương hướng.

Campakaṃ salaḷaṃ nīpaṃ - nāgapunnāgaketakaṃ

dīsodisaṃ okiranti - bhūmitalagatā narā. (50)

Loài người di chuyển ở trên mặt đất ném các bông hoa chăm-pa, bông hoa salaḷa, bông hoa nīpa, bông hoa nāga, punnāga, và ketaka ra khắp các phương hướng.

Kese muñcitvāhaṃ tattha - vākacīraṃ ca cammakaṃ

kalale pattharitvāna - avakujjo nipajj’ahaṃ. (51)

Tại nơi ấy, sau khi xõa tóc ta đã trải ra bộ y phục vỏ cây và da thú ở trên bãi bùn lầy rồi ta đã nằm sấp xuống (nói rằng):

Akkamitvāna maṃ buddho - saha sissehi gacchatu

mā naṃ kalalaṃ akkamittha - hitāya me bhavissati. (52)

Xin đức Phật hãy bước lên (người) con. Xin Ngài cùng các đệ tử hãy tiến bước. Xin các vị chớ bước đi ở bãi bùn lầy ấy; (việc này) sẽ đem lại sự lợi ích cho con.” (53)

Paṭhaviyaṃ nipannassa - evaṃ me āsi cetaso

icchamāno ahaṃ ajja - kilese jhāpaye mama.

Khi đang nằm ở trên mặt đất, tư tưởng như vầy đã khởi đến ta: “(Nếu) mong muốn ta có thể thiêu đốt các phiền não của ta ngày hôm nay.

Kiṃ me aññātavesena - dhammaṃ sacchikatenidha

sabbaññutaṃ pāpuṇitvā - buddho hessaṃ sadevake. (54)

Ta có được gì ở đây khi chứng đắc Giáo Pháp theo phương thức không được tiếng tăm? Ta nên thành tựu quả vị Toàn Tri và trở thành đức Phật ở thế gian có cả chư thiên.

Kiṃ me ekena tiṇṇena - purisena thāmadassinā

sabbaññutaṃ pāpuṇitvā - santāressaṃ sadevake. (55)

Ta có được gì khi là người biết được sức mạnh (của bản thân) lại vượt qua chỉ một mình? Ta nên thành tựu quả vị Toàn Tri và giúp cho thế gian luôn cả chư thiên vượt qua.

Iminā me adhikārena - katena purisuttame

sabbaññutaṃ pāpuṇāmi - tāremi janataṃ bahuṃ. (56)

Với hành động hướng thượng này của ta đã được thực hiện đến bậc Tối Thượng Nhân, ta sẽ thành tựu quả vị Toàn Tri và sẽ giúp cho nhiều chúng sanh vượt qua.

Saṃsārasotaṃ chinditvā - viddhaṃsetvā tayo bhave

dhammanāvaṃ samāruyha - santāressaṃ sadevake. (57)

Sau khi cắt đứt giòng chảy luân hồi và phá hủy ba cõi (tái sanh), ta sẽ ngự lên con tàu Chánh Pháp và sẽ giúp cho thế gian luôn cả chư thiên vượt qua.”

[Manussattaṃ liṅgasampatti, hetu satthāradassanaṃ;][14]

pabbajjā guṇasampatti, adhikāro ca chandatā;

aṭṭhadhammasamodhānā, abhinīhāro samijjhati. (58)

Sự phát nguyện được thành tựu nhờ vào sự tổng hợp của tám pháp: [Bản thân là loài người, thành tựu nam căn, có chủng tử, nhìn thấy bậc Đạo Sư,] là vị xuất gia, hội đủ đức hạnh, có hành động hướng thượng, và lòng ước muốn.

Dīpaṅkaro lokavidū - āhutīnaṃ paṭiggaho

ussīsake maṃ ṭhatvāna - idaṃ vacanamabravi. (59)

Đấng Thông Suốt Thế Gian Dīpaṅkara, vị thọ nhận các vật cúng dường, đã đứng kề cận đỉnh đầu của ta và đã nói lời này:

Passatha imaṃ tāpasaṃ - jaṭilaṃ uggatāpanaṃ

aparimeyye ito kappe - buddho loke bhavissati. (60)

[15]Các người hãy nhìn đạo sĩ tóc bện có khổ hạnh cao tột này. Trong vô lượng kiếp tính từ thời điểm này, (người này) sẽ trở thành vị Phật ở thế gian.

Ahu kapilavhayā rammā - nikkhamitvā tathāgato

padhānaṃ padahitvāna - katvā dukkarakārikaṃ. (61)

Sau khi rời khỏi (thành phố) xinh đẹp tên là Kapila, đức Như Lai ra sức nỗ lực và thực hiện hành động khó thực hành được (khổ hạnh).

Ajapālarukkhamūlasmiṃ - nisīditvā tathāgato

tattha pāyāsaṃ paggayha - nerañjaramupehiti. (62)

Sau khi ngồi xuống ở cội cây của những người chăn dê, đức Như Lai nhận lấy món cơm sữa ở tại nơi ấy rồi đi đến Nerañjarā (Ni-liên-thiền).

Nerañjarāya tīramhi - pāyāsaṃ adi so jino

paṭiyattavaramaggena - bodhimūlamhi ehiti. (63)

Ở tại bờ sông Nerañjarā, đấng Chiến Thắng ấy hưởng dụng món cơm sữa rồi đi đến cội cây Bồ Đề bằng đạo lộ cao quý đã được dọn sẵn.

Tato padakkhiṇaṃ katvā - bodhimaṇḍaṃ anuttaraṃ

assattharukkhamūlamhi - bujjhissati mahāyaso. (64)

Kế đó, sau khi nhiễu quanh khuôn viên của cội Bồ Đề tối thắng, vị có danh tiếng vĩ đại sẽ được giác ngộ ở tại cội cây Assattha.

Imassa janikā mātā - māyā nāma bhavissati

pitā suddhodano nāma - ayaṃ hessati gotamo. (65)

Người mẹ sanh ra vị này sẽ có tên là Māyā. Người cha tên là Suddhodana. Vị này sẽ là Gotama.

Anāsavā vītarāgā - santacittā samāhitā

kolito upatisso ca - aggā hessanti sāvakā (66)

ānando nāmupaṭṭhāko - upaṭṭhissatimaṃ jinaṃ.

Kolita và Upatissa không còn lậu hoặc, tham ái đã lìa, có tâm an tịnh và định tĩnh sẽ là (hai vị) Thinh Văn hàng đầu. Vị thị giả tên là Ānanda sẽ phục vụ đấng Chiến Thắng này.

Khemā uppalavaṇṇā ca - aggā hessanti sāvikā (67)

anāsavā vītarāgā - santacittā samāhitā.

Khemā và Uppalavaṇṇā sẽ là (hai vị) nữ Thinh Văn hàng đầu, không còn lậu hoặc, tham ái đã lìa, có tâm an tịnh và định tĩnh.

Bodhi tassa bhagavato - assatthoti pavuccati (68)

citto ca hatthāḷavako - aggā hessantupaṭṭhakā.

Cội cây Bồ Đề của đức Thế Tôn ấy được gọi tên là ‘Assattha.’ Citta và Haṭṭhāḷavaka sẽ là (hai) thí chủ hộ độ hàng đầu.

Nandamātā ca uttarā - aggā hessantupaṭṭhikā (69)

āyu vassasataṃ tassa - gotamassa yasassino.[16]

Nandamātā và Uttarā sẽ là (hai) nữ thí chủ hộ độ hàng đầu. Tuổi thọ (vào thời) của vị Gotama có danh tiếng ấy là một trăm năm.”

Idaṃ sutvāna vacanaṃ - asamassa mahesino

āmoditā naramarū - buddhavījaṅkuro ayaṃ. (70)

Sau khi nghe được lời nói này của vị Đại Ẩn Sĩ không ai sánh bằng, chư thiên và nhân loại mừng rỡ (nghĩ rằng): “Vị này là chủng tử mầm mống của chư Phật.”

Ukkuṭṭhisaddā vattanti - apphoṭenti hasanti ca

katañjalī namassanti - dasasahassī sadevakā. (71)

Mười ngàn thế giới luôn cả chư thiên thốt lên những tiếng reo hò, vỗ tay, nở nụ cười, chắp tay cúi lạy (nói rằng):

Yadimassa lokanāthassa - virajjhissāma sāsanaṃ

anāgatamhi addhāne - hessāma sammukhā imaṃ. (72)

Nếu chúng tôi thất bại với lời giáo huấn của đấng Lãnh Đạo Thế Gian này thì chúng tôi sẽ đối diện vị kia trong tương lai xa vời.

Yathā manussā nadiṃ tarantā - paṭititthaṃ virajjhiya

heṭṭhā titthaṃ gahetvāna - uttaranti mahānadiṃ. (73)

Giống như những người băng ngang giòng sông không đạt được bến bờ đối diện, họ vượt qua giòng sông rộng lớn sau khi đạt được bến bờ ở bên dưới.

Evameva mayaṃ sabbe - yadi muñcāmimaṃ jinaṃ

anāgatamhi addhāne - hessāma sammukhā imaṃ. (74)

Tương tợ y như thế, nếu tất cả chúng tôi lỡ dịp với đấng Chiến Thắng này thì chúng tôi sẽ đối diện vị kia trong tương lai xa vời.”

Dīpaṅkaro lokavidū - āhutīnaṃ paṭiggaho

mama kammaṃ pakittetvā - dakkhiṇapādamuddhari. (75)

Đấng Thông Suốt Thế Gian Dīpaṅkara, vị thọ nhận các vật cúng dường đã công bố về hành động của ta rồi đã hướng vai phải nhiễu quanh.[17]

Ye tattha āsuṃ jinaputtā - sabbe padakkhiṇamakaṃsu maṃ.

devā manussā asurā ca yakkhā - abhivādetvāna pakkamuṃ. (76)

Những vị là Thinh Văn của đấng Chiến Thắng ở tại nơi ấy, tất cả các vị đã đi nhiễu quanh (ta). Chư thiên, nhân loại, A-tu-la, và các Dạ-xoa đã đảnh lễ (ta) rồi ra đi.

Dassanaṃ me atikkante - sasaṅghe lokanāyake

sayanā vuṭṭhahitvāna - pallaṅkaṃ ābhujiṃ tadā. (77)

Vào lúc vị Lãnh Đạo Thế Gian cùng hội chúng đã đi khỏi tầm nhìn của ta, khi ấy ta đã từ chỗ nằm vươn dậy rồi xếp vào thế kiết già.

Sukhena sukhito homi - pāmojjena pamodito

pītiyā ca abhissanno - pallaṅkaṃ ābhujiṃ tadā. (78)

Khi ấy, ta được an lạc với sự an lạc, mừng rỡ với sự mừng rỡ, được tràn ngập với pháp hỷ, và ta đã xếp vào thế kiết già.

Pallaṅkena nisīditvā - evaṃ cintesihaṃ tadā

vasībhūto ahaṃ jhāne - abhiññāpāramiṅgato. (79)

Sau khi ngồi xuống với tư thế kiết già, khi ấy ta đã suy nghĩ như vầy: “Được tự tại trong pháp thiền, ta đã đạt đến sự toàn hảo về thắng trí.

Sahassiyamhi lokamhi - isayo natthi me samā

asamo iddhidhammesu - alabhiṃ īdisaṃ sukhaṃ. (80)

Ở trong (mười) ngàn thế giới, các ẩn sĩ ngang bằng với ta là không có. Không có vị nào bằng về các phép thần thông. Ta đã đạt được sự an lạc như thế ấy.”

Pallaṅkābhujane mayhaṃ - dasasahassādhivāsino

mahānādaṃ pavattesuṃ - dhuvaṃ buddho bhavissasi. (81)

Khi ta đã xếp vào tư thế kiết già, cư dân thuộc mười ngàn (thế giới) đã phát ra lời nói vang dội rằng: “Chắc chắn ngài sẽ trở thành đức Phật.

Yā pubbe bodhisattānaṃ - pallaṅkavaramābhuje

nimittāni padissanti - tāni ajja padissare. (82)

Trước đây, những điềm báo hiệu nào đã được thể hiện khi các vị Bồ Tát xếp vào tư thế kiết già cao quý, những điều ấy được thể hiện ngày hôm nay.

Sītaṃ byāpagataṃ hoti - uṇhañca upasammati

tāni ajja padissanti - dhuvaṃ buddho bhavissasi. (83)

Sự lạnh lẽo được biến đi và sự nóng nảy được lắng dịu. Những điều ấy được thể hiện ngày hôm nay. Chắc chắn ngài sẽ trở thành đức Phật.

Dasasahassī lokadhātu - nissaddā honti nirākulā

tāni ajja padissanti - dhuvaṃ buddho bhavissasi. (84)

Mười ngàn thế giới không có tiếng động và không bị chộn rộn. Những điều ấy được thể hiện ngày hôm nay. Chắc chắn ngài sẽ trở thành đức Phật.

Mahāvātā na vāyanti - na sandanti savantiyo

tāni ajja padissanti - dhuvaṃ buddho bhavissasi. (85)

Những cơn gió lớn ngừng thổi, những giòng nước ngừng chảy. Những điều ấy được thể hiện ngày hôm nay. Chắc chắn ngài sẽ trở thành đức Phật.

Thalajā jalajā pupphā - sabbe pupphanti tāvade

te’p’ajja pupphitā sabbe - dhuvaṃ buddho bhavissasi. (86)

Những bông hoa mọc ở trên đất và mọc ở trong nước, tất cả lập tức nở hoa. Tất cả các bông hoa ấy cũng nở hoa ngày hôm nay. Chắc chắn ngài sẽ trở thành đức Phật.

Latā vā yadivā[18] rukkhā - phalaṃ dhārenti tāvade

tepajja phalitā sabbe - dhuvaṃ buddho bhavissasi. (87)

Những dây leo hay là những cây cho quả lập tức trĩu quả. Tất cả các cây ấy cũng được kết trái ngày hôm nay. Chắc chắn ngài sẽ trở thành đức Phật.

Ākāsaṭṭhā ca bhūmaṭṭhā - ratanā jotanti tāvade

tepajja ratanā jotanti - dhuvaṃ buddho bhavissasi. (88)

Ở trên không trung và ở đất liền, các châu báu lập tức rực sáng. Các châu báu ấy cũng rực sáng ngày hôm nay. Chắc chắn ngài sẽ trở thành đức Phật.

Mānussikā ca dibbā ca - turiyā vajjanti tāvade

tepajjubho abhiravanti - dhuvaṃ buddho bhavissasi. (89)

Các loại nhạc cụ của loài người và của cõi trời lập tức tấu nhạc. Cả hai loại nhạc cụ ấy cũng trình tấu ngày hôm nay. Chắc chắn ngài sẽ trở thành đức Phật.

Vicittapupphā gaganā - abhivassanti tāvade

tepi ajja padissanti - dhuvaṃ buddho bhavissasi. (90)

Những bông hoa các loại đã lập tức rơi xuống từ bầu trời. Chúng cũng được thể hiện ngày hôm nay. Chắc chắn ngài sẽ trở thành đức Phật.

Mahāsamuddo ābhujati - dasasahassī pakampati

tepajjubho abhiravanti - dhuvaṃ buddho bhavissasi. (91)

Đại dương lùi ra xa, mười thế giới rúng động. Cả hai việc ấy cũng ầm ĩ ngày hôm nay. Chắc chắn ngài sẽ trở thành đức Phật.

Niraye dasasahassā - aggī nibbanti tāvade

tepajja nibbutā aggī - dhuvaṃ buddho bhavissasi. (92)

Mười ngàn ngọn lửa ở địa ngục lập tức được dập tắt. Các ngọn lửa ấy cũng được dập tắt ngày hôm nay. Chắc chắn ngài sẽ trở thành đức Phật.

Vimalo hoti suriyo - sabbā dissanti tārakā

tepi ajja padissanti - dhuvaṃ buddho bhavissasi. (93)

Mặt trời không bị u ám, tất cả các ngôi sao được nhìn thấy. Các việc ấy cũng được thể hiện ngày hôm nay. Chắc chắn ngài sẽ trở thành đức Phật.

Anovaṭṭhena udakaṃ - mahiyā ubbhijji tāvade

tampajjubbhijjate mahiyā - dhuvaṃ buddho bhavissasi. (94)

Dầu không có mưa nhưng nước lập tức được phun lên từ mặt đất. Nước ấy cũng được phun lên từ mặt đất ngày hôm nay. Chắc chắn ngài sẽ trở thành đức Phật.

Tārāgaṇā virocanti - nakkhattā gaganamaṇḍale

visākhā candimāyuttā - dhuvaṃ buddho bhavissasi. (95)

Các chòm sao, các vì tinh tú chiếu sáng ở trên vòm trời. Chòm sao Visākhā được liên kết với mặt trăng. Chắc chắn ngài sẽ trở thành đức Phật.

Vilāsayā darīsayā - nikkhamanti sakāsayā

tepajja āsayā chuddhā - dhuvaṃ buddho bhavissasi. (96)

Các loài thú ở hang, các loài thú ở hốc rời khỏi chỗ ngụ của chúng. Chúng cũng chối từ chỗ ngụ ngày hôm nay. Chắc chắn ngài sẽ trở thành đức Phật.

Na hoti arati sattānaṃ - santuṭṭhā honti tāvade

tepajja sabbe santuṭṭhā - dhuvaṃ buddho bhavissasi. (97)

Không có sự không vui thích ở các chúng sanh. Họ lập tức trở nên hớn hở. Tất cả bọn họ cũng hớn hở ngày hôm nay. Chắc chắn ngài sẽ trở thành đức Phật.

Rogā tanūpasammanti - jighacchā ca vinassati

tānipajja padissanti - dhuvaṃ buddho bhavissasi. (98)

Tật bịnh được giảm thiểu và nạn đói được tiêu trừ. Các điều ấy cũng được thể hiện ngày hôm nay. Chắc chắn ngài sẽ trở thành đức Phật.

Rāgo tadā tanu hoti - doso moho vinassati

tepajja vigatā sabbe - dhuvaṃ buddho bhavissasi. (99)

Khi ấy, tham dục trở nên nhỏ nhoi, sân hận si mê được tiêu trừ. Tất cả các điều ấy cũng đã biến mất ngày hôm nay. Chắc chắn ngài sẽ trở thành đức Phật.

Bhayaṃ tadā na bhavati - ajjapetaṃ padissati

tena liṅgena jānāma - dhuvaṃ buddho bhavissasi. (100)

Khi ấy, nỗi sợ hãi không hiện diện. Điều ấy cũng được thể hiện ngày hôm nay. Với hiện tướng ấy, chúng tôi biết được chắc chắn ngài sẽ trở thành đức Phật.

Rajonuddhaṃsati uddhaṃ - ajjapetaṃ padissati

tena liṅgena jānāma - dhuvaṃ buddho bhavissasi. (101)

Bụi bặm không bốc lên phía bên trên. Điều ấy cũng được thể hiện ngày hôm nay. Với hiện tướng ấy, chúng tôi biết được chắc chắn ngài sẽ trở thành đức Phật.

Aniṭṭhagandho pakkamati - dibbagandho pavāyati

sopajja vāyati gandho - dhuvaṃ buddho bhavissasi. (102)

Mùi khó chịu biến đi. Mùi hương của thiên đình tỏa đến. Hương thơm ấy cũng tỏa ra ngày hôm nay. Chắc chắn ngài sẽ trở thành đức Phật.

Sabbe devā padissanti - ṭhapetvā ca arūpino

tepajja sabbe dissanti - dhuvaṃ buddho bhavissasi. (103)

Tất cả chư thiên đều hiện ra ngoại trừ các vị ở cõi vô sắc. Tất cả các vị ấy cũng được nhìn thấy ngày hôm nay. Chắc chắn ngài sẽ trở thành đức Phật.

Yāvatā nirayā nāma - sabbe dissanti tāvade

tepajja sabbe dissanti - dhuvaṃ buddho bhavissasi. (104)

Cho đến các nơi gọi là địa ngục, toàn bộ lập tức được nhìn thấy. Tất cả các nơi ấy cũng được nhìn thấy ngày hôm nay. Chắc chắn ngài sẽ trở thành đức Phật.

Kuṭā kavāṭā selā ca - na hontāvaraṇā tadā

ākāsabhūtā tepajja - dhuvaṃ buddho bhavissasi. (105)

Khi ấy, các bức tường thành, các cánh cửa, và các tảng đá không còn là các vật chướng ngại. Chúng cũng đều trở thành những khoảng không ngày hôm nay. Chắc chắn ngài sẽ trở thành đức Phật.

Cuti ca upapatti ca - khaṇe tasmiṃ na vijjati

tāni ajja padissanti - dhuvaṃ buddho bhavissasi. (106)

Sự chết và sự tái sanh không xảy ra vào thời khắc ấy. Chúng không được nhìn thấy ngày hôm nay. Chắc chắn ngài sẽ trở thành đức Phật.

Ime nimittā dissanti - sambodhatthāya pāṇinaṃ

daḷhaṃ paggayha viriyaṃ - mā nivatta abhikkama

mayaṃpetaṃ vijānāma - dhuvaṃ buddho bhavissasi. (107)

Những hiện tướng này được nhìn thấy vì mục đích Toàn Giác cho chúng sanh. Hãy nỗ lực tinh tấn một cách bền bĩ. Chớ có quay lui, hãy tiến bước. Chúng tôi cũng biết rõ điều này là chắc chắn ngài sẽ trở thành đức Phật.”

Buddhassa vacanaṃ sutvā - dasasahassīna - cūbhayaṃ

tuṭṭhahaṭṭho pamodito - evaṃ cintesahantadā. (108)

Nghe được lời nói của cả hai là của đức Phật và của (chư thiên) mười ngàn thế giới, khi ấy ta hớn hở, vui mừng, hoan hỷ suy nghĩ như vầy:

Advejjhavacanā buddhā - amoghavacanā jinā

vitathaṃ natthi buddhānaṃ - dhuvaṃ buddho bhavāmihaṃ. (109)

Chư Phật các đấng Chiến Thắng không có nói hai lời, không có lời nói rồ dại. Chư Phật không có sự dối trá, chắc chắn ta sẽ trở thành vị Phật.

Yathā khittaṃ nabhe leṇḍaṃ - dhuvaṃ patati bhūmiyaṃ

tatheva buddhaseṭṭhānaṃ - vacanaṃ dhuvasassataṃ. (110)

[vitathaṃ natthi buddhānaṃ - dhuvaṃ buddho bhavāmihaṃ.][19]

Giống như cục đất được ném ở khoảng không thì chắc chắn rơi xuống đất, tương tợ y như thế lời nói của chư Phật là chắc chắn và có cơ sở. Chư Phật không có sự dối trá, chắc chắn ta sẽ trở thành vị Phật.

yathāpi sabbasattānaṃ - maraṇaṃ dhuvasassataṃ

tatheva buddhaseṭṭhānaṃ - vacanaṃ dhuvasassataṃ. (111)

[vitathaṃ natthi buddhānaṃ - dhuvaṃ buddho bhavāmihaṃ.]

Cũng giống như sự chết của tất cả chúng sanh là chắc chắn và có cơ sở, tương tợ y như thế lời nói của chư Phật tối thượng là chắc chắn và có cơ sở. Chư Phật không có sự dối trá, chắc chắn ta sẽ trở thành vị Phật.

Yathā rattikkhaye patte - suriyuggamanaṃ dhuvaṃ

tatheva buddhaseṭṭhānaṃ - vacanaṃ dhuvasassataṃ. (112)

[vitathaṃ natthi buddhānaṃ - dhuvaṃ buddho bhavāmihaṃ.]

Giống như khi đêm tàn đã đến thì có sự mọc lên của mặt trời là điều chắc chắn, tương tợ y như thế lời nói của chư Phật tối thượng là chắc chắn và có cơ sở. Chư Phật không có sự dối trá, chắc chắn ta sẽ trở thành vị Phật.

Yathā nikkhantasayanassa - sīhassa nadanaṃ dhuvaṃ

tatheva buddhaseṭṭhānaṃ - vacanaṃ dhuvasassataṃ. (113)

[vitathaṃ natthi buddhānaṃ - dhuvaṃ buddho bhavāmihaṃ.]

Giống như tiếng rống của con sư tử khi rời khỏi chỗ nằm là điều chắc chắn, tương tợ y như thế lời nói của chư Phật tối thượng là chắc chắn và có cơ sở. Chư Phật không có sự dối trá, chắc chắn ta sẽ trở thành vị Phật.

Yathā āpannasattānaṃ - bhāramoropanaṃ dhuvaṃ

tatheva buddhaseṭṭhānaṃ - vacanaṃ dhuvasassataṃ. (114)

[vitathaṃ natthi buddhānaṃ - dhuvaṃ buddho bhavāmihaṃ.]

Giống như việc lâm bồn của các sản phụ là điều chắc chắn, tương tợ y như thế lời nói của chư Phật tối thượng là chắc chắn và có cơ sở. Chư Phật không có sự dối trá, chắc chắn ta sẽ trở thành vị Phật.

Handa buddhakare dhamme - vicināmi itocito

uddhaṃ adho dasadisā - yāvatā dhammadhātuyā. (115)

Vậy, ta hãy xem xét các pháp tạo thành quả vị Phật từ nơi này và từ nơi này, ở bên trên (cõi trời), ở bên dưới (cõi nhân loại), và các phương hướng cho đến tận bản thể của các pháp ấy.”

Vicinanto tadā dakkhiṃ - paṭhamaṃ dānapāramiṃ

pubbakehi mahesīhi - anuciṇṇaṃ mahāpathaṃ. (116)

Khi ấy, trong lúc xem xét ta đã nhận ra pháp thứ nhất là sự toàn hảo về bố thí (bố thí ba-la-mật), là đạo lộ thênh thang đã được thực hành bởi các vị đại ẩn sĩ tiền bối.

Imaṃ tvaṃ paṭhamaṃ tāva - daḷhaṃ katvā samādiya

dānapāramitaṃ gaccha - yadi bodhiṃ pattumicchasi. (117)

Ngươi[20] hãy củng cố và thọ trì cho được pháp thứ nhất này. Ngươi hãy đạt đến sự toàn hảo về bố thí nếu ngươi muốn đạt được quả vị Giác Ngộ.

Yathāpi kumbho sampuṇṇo - yassa kassaci adhokato

vamate udakaṃ nissesaṃ - na tattha parirakkhati. (118)

Cũng giống như cái chum được chứa đầy đã bị úp ngược lại bởi bất cứ điều gì, thì tuôn nước ra không còn dư sót, hoàn toàn không giữ lại ở trong đó.

Tatheva yācake disvā - hīnamukkaṭṭhamajjhime

dadāhi dānaṃ nissesaṃ - kumbho viya adhokato.(119)

Tương tợ y như thế, khi nhìn thấy những người cầu xin dầu hèn, sang, hay trung bình, ngươi hãy cho ra vật thí không chừa lại ví như cái chum đã được úp ngược lại.

Na hete ettakāyeva - buddhadhammā bhavissare

aññepi vicinissāmi - ye dhammā bodhipācanā. (120)

Nhưng các pháp tạo thành quả vị Phật sẽ không chỉ có chừng ấy, ta sẽ xem xét các điều khác nữa là các pháp làm chín muồi sự giác ngộ.

Vicinanto tadā dakkhiṃ - dutiyaṃ sīlapāramiṃ

pubbakehi mahesīhi - āsevitaṃ nisevitaṃ. (121)

Khi ấy, trong lúc xem xét ta đã nhận ra pháp thứ nhì là sự toàn hảo về giới đã được các vị đại ẩn sĩ tiền bối thực hành, gắn bó.

Imaṃ tvaṃ dutiyaṃ tāva - daḷhaṃ katvā samādiya

sīlapāramitaṃ gaccha - yadi bodhiṃ pattumicchasi. (122)

Ngươi hãy củng cố và thọ trì cho được pháp thứ nhì này. Ngươi hãy đạt đến sự toàn hảo về giới nếu ngươi muốn đạt được quả vị Giác Ngộ.

Yathāpi cāmarī vālaṃ - kismiñci paṭilaggitaṃ

upeti maraṇaṃ tattha - na vikopeti vāladhiṃ. (123)

Cũng giống như con bò mộng có cái đuôi bị vướng vào bất cứ vật gì thà chấp nhận cái chết ở tại nơi ấy chứ không làm đứt cái đuôi.

Tatheva catūsu bhūmīsu - sīlāni paripūraya

parirakkha sabbadā sīlaṃ - cāmarī viya vāladhiṃ. (124)

Tương tợ y như thế, hãy làm tròn đủ các giới luật trong bốn lãnh vực,[21] hãy luôn luôn gìn giữ vẹn toàn giới luật giống như là con bò mộng hộ trì cái đuôi vậy.

Na hete ettakāyeva - buddhadhammā bhavissare

aññepi vicinissāmi - ye dhammā bodhipācanā. (125)

Nhưng các pháp tạo thành quả vị Phật sẽ không chỉ có chừng ấy, ta sẽ xem xét các điều khác nữa là các pháp làm chín muồi sự giác ngộ.

Vicinanto tadā dakkhiṃ - tatiyaṃ nekkhammapāramiṃ

pubbakehi mahesīhi - āsevitaṃ nisevitaṃ. (126)

Khi ấy, trong lúc xem xét ta đã nhận ra pháp thứ ba là sự toàn hảo về xuất ly đã được các vị đại ẩn sĩ tiền bối thực hành, gắn bó.

Imaṃ tvaṃ tatiyaṃ tāva - daḷhaṃ katvā samādiya

nekkhammapāramitaṃ gaccha - yadi bodhiṃ pattumicchasi. (127)

Ngươi hãy củng cố và thọ trì cho được pháp thứ ba này. Ngươi hãy đạt đến sự toàn hảo về xuất ly nếu ngươi muốn đạt được quả vị Giác Ngộ.

Yathā aṭṭaghare puriso - ciraṃ vuṭṭho dukkhaddito

na tattha rāgaṃ abhijaneti - muttiṃyeva gavesati. (128)

Giống như người sống đã lâu ở trong nhà tù, bị hành hạ khổ sở, không khởi lên lòng ái luyến đối với nơi ấy mà tầm cầu chỉ mỗi sự tự do.

Tatheva tvaṃ sabbabhave - passa aṭṭaghare viya

nekkhammābhimukho hohi - bhavato parimuttiyā. (129)

Tương tợ y như thế, ngươi hãy nhìn tất cả các cõi tái sanh (dục giới, sắc giới, vô sắc giới) như là các nhà tù. Hãy hướng về xuất ly nhắm đến sự hoàn toàn giải thoát khỏi các cõi.

Na hete ettakāyeva - buddhadhammā bhavissare

aññepi vicinissāmi - ye dhammā bodhipācanā. (130)

Nhưng các pháp tạo thành quả vị Phật sẽ không chỉ có chừng ấy, ta sẽ xem xét các điều khác nữa là các pháp làm chín muồi sự giác ngộ.

Vicinanto tadā dakkhiṃ - catutthaṃ paññāpāramiṃ

pubbakehi mahesīhi - āsevitaṃ nisevitaṃ. (131)

Khi ấy, trong lúc xem xét ta đã nhận ra pháp thứ tư là sự toàn hảo về trí tuệ đã được các vị đại ẩn sĩ tiền bối thực hành, gắn bó.

Imaṃ tvaṃ catutthaṃ tāva - daḷhaṃ katvā samādiya

paññāpāramitaṃ gaccha - yadi bodhiṃ pattumicchasi. (132)

Ngươi hãy củng cố và thọ trì cho được pháp thứ tư này. Ngươi hãy đạt đến sự toàn hảo về trí tuệ nếu ngươi muốn đạt được quả vị Giác Ngộ.

Yathāpi bhikkhu bhikkhanto - hīnamukkaṭṭhamajjhime

kulāni na vivajjento - evaṃ labhati yāpanaṃ. (133)

Cũng giống như vị tỳ khưu trong khi đi khất thực không bỏ qua các gia đình dầu hèn, sang, hay trung lưu, và như thế ấy đạt được phương tiện sinh sống.

Tatheva tvaṃ sabbakālaṃ - paripucchanto budhaṃ janaṃ

paññāpāramitaṃ gantvā - sambodhiṃ pāpuṇissasi. (134)

Tương tợ y như thế, trong khi vấn hỏi người có trí tuệ vào mọi thời điểm, ngươi sẽ đạt đến sự toàn hảo về trí tuệ và sẽ thành tựu quả vị Toàn Giác.

Na hete ettakāyeva - buddhadhammā bhavissare

aññepi vicinissāmi - ye dhammā bodhipācanā. (135)

Nhưng các pháp tạo thành quả vị Phật sẽ không chỉ có chừng ấy, ta sẽ xem xét các điều khác nữa là các pháp làm chín muồi sự giác ngộ.

Vicinanto tadā dakkhiṃ - pañcamaṃ viriyapāramiṃ

pubbakehi mahesīhi - āsevitaṃ nisevitaṃ. (136)

Khi ấy, trong lúc xem xét ta đã nhận ra pháp thứ năm là sự toàn hảo về tinh tấn đã được các vị đại ẩn sĩ tiền bối thực hành, gắn bó.

Imaṃ tvaṃ pañcamaṃ tāva - daḷhaṃ katvā samādiya

viriyapāramitaṃ gaccha - yadi bodhiṃ pattumicchasi. (137)

Ngươi hãy củng cố và thọ trì cho được pháp thứ năm này. Ngươi hãy đạt đến sự toàn hảo về tinh tấn nếu ngươi muốn đạt được quả vị Giác Ngộ.

Yathāpi sīho migarājā - nisajjaṭṭhānacaṅkame

alīnaviriyo hoti - paggahitamano sadā. (138)

Cũng giống như con sư tử, vua các loài thú, trong khi ngồi, đứng, đi tới lui, có sự tinh tấn không uể oải và luôn luôn có tâm cảnh giác.

Tatheva tvaṃ sabbabhave - paggayha viriyaṃ daḷhaṃ

viriyapāramitaṃ gantvā - sambodhiṃ pāpuṇissasi. (139)

Tương tợ y như thế, ở tại tất cả các cõi tái sanh ngươi hãy nỗ lực sự tinh tấn bền vững, sau khi đạt đến sự toàn hảo về tinh tấn ngươi sẽ thành tựu quả vị Toàn Giác.

Na hete ettakāyeva - buddhadhammā bhavissare

aññepi vicinissāmi - ye dhammā bodhipācanā. (140)

Nhưng các pháp tạo thành quả vị Phật sẽ không chỉ có chừng ấy, ta sẽ xem xét các điều khác nữa là các pháp làm chín muồi sự giác ngộ.

Vicinanto tadā dakkhiṃ - chaṭṭhamaṃ khantipāramiṃ

pubbakehi mahesīhi - āsevitaṃ nisevitaṃ. (141)

Khi ấy, trong lúc xem xét ta đã nhận ra pháp thứ sáu là sự toàn hảo về nhẫn nại đã được các vị đại ẩn sĩ tiền bối thực hành, gắn bó.

Imaṃ tvaṃ chaṭṭhamaṃ tāva - daḷhaṃ katvā samādiya

tattha advejjhamānaso - sambodhiṃ pāpuṇissasi. (142)

Ngươi hãy củng cố và thọ trì cho được pháp thứ sáu này. Với tâm trí không chao động ở trong pháp ấy, ngươi sẽ thành tựu quả vị Toàn Giác.

Yathāpi paṭhavī nāma - suciṃpi asuciṃpi ca

sabbaṃ sahati nikkhepaṃ - na karoti paṭighaddayaṃ. (143)

Cũng giống như trái đất chịu đựng tất cả các vật quăng bỏ, cả sạch sẽ lẫn dơ dáy, không tỏ ra bực bội hay thích thú.

Tatheva tvaṃpi sabbesaṃ - sammānāvamānakkhamo

khantipāramitaṃ gantvā - sambodhiṃ pāpuṇissasi. (144)

Tương tợ y như thế, ngươi cũng hãy chấp nhận sự trọng vọng hoặc khinh khi của tất cả, sau khi đạt đến sự toàn hảo về nhẫn nại ngươi sẽ thành tựu quả vị Toàn Giác.

Na hete ettakāyeva - buddhadhammā bhavissare

aññepi vicinissāmi - ye dhammā bodhipācanā. (145)

Nhưng các pháp tạo thành quả vị Phật sẽ không chỉ có chừng ấy, ta sẽ xem xét các điều khác nữa là các pháp làm chín muồi quả vị Giác Ngộ.

Vicinanto tadā dakkhiṃ - sattamaṃ saccapāramiṃ

pubbakehi mahesīhi - āsevitaṃ nisevitaṃ. (146)

Khi ấy, trong lúc xem xét ta đã nhận ra pháp thứ bảy là sự toàn hảo về chân thật đã được các vị đại ẩn sĩ tiền bối thực hành, gắn bó.

Imaṃ tvaṃ sattamaṃ tāva - daḷhaṃ katvā samādiya

tattha advejjhavacano - sambodhiṃ pāpuṇissasi. (147)

Ngươi hãy củng cố và thọ trì cho được pháp thứ bảy này. Không có nói hai lời trong pháp này (thì) ngươi sẽ thành tựu quả vị Toàn Giác.

Yathāpi osadhi nāma - tulābhūtā sadevake

samaye utuvasse vā - na vokkamati vīthito. (148)

Cũng giống như (ngôi sao) Osadhi, có trạng thái cân bằng ở tại thế gian luôn cả các cõi trời, không đi lệch ra ngoài quỹ đạo vào thời điểm trong năm hoặc mùa tiết.

Tatheva tvaṃpi saccesu - mā vokkamasi vīthito

saccapāramitaṃ gantvā - sambodhiṃ pāpuṇissasi. (149)

Tương tợ y như thế, chớ đi lệch ra khỏi đường lối của các sự thật, sau khi đạt đến sự toàn hảo về chân thật ngươi sẽ thành tựu quả vị Toàn Giác.

Na hete ettakāyeva - buddhadhammā bhavissare

aññepi vicinissāmi - ye dhammā bodhipācanā. (150)

Nhưng các pháp tạo thành quả vị Phật sẽ không chỉ có chừng ấy, ta sẽ xem xét các điều khác nữa là các pháp làm chín muồi sự giác ngộ.

Vicinanto tadā dakkhiṃ - aṭṭhamaṃ adhiṭṭhānapāramiṃ

pubbakehi mahesīhi - āsevitaṃ nisevitaṃ. (151)

Khi ấy, trong lúc xem xét ta đã nhận ra pháp thứ tám là sự toàn hảo về quyết định đã được các vị đại ẩn sĩ tiền bối thực hành, gắn bó.

Imaṃ tvaṃ aṭṭhamaṃ tāva - daḷhaṃ katvā samādiya

tattha tvaṃ niccalo hutvā - sambodhiṃ pāpuṇissasi. (152)

Ngươi hãy củng cố và thọ trì cho được pháp thứ tám này. Sau khi trở nên không còn giao động trong pháp này ngươi sẽ thành tựu quả vị Toàn Giác.

Yathāpi pabbato selo - acalo supatiṭṭhito

na kampati bhusavātehi - sakaṭṭhāneva tiṭṭhati. (153)

Cũng giống như hòn núi đá bền vững, khéo được kết cấu, đứng yên tại chính vị trí của nó, không rung động vì những cơn gió dữ dội.

Tatheva tvampi adhiṭṭhāne - sabbadā acalo bhava

adhiṭṭhānapāramitaṃ gantvā - sambodhiṃ pāpuṇissasi. (154)

Tương tợ y như thế, ngươi cũng hãy luôn luôn không chao đảo trong sự quyết định, sau khi đạt được sự toàn hảo về quyết định ngươi sẽ thành tựu quả vị Toàn Giác.

Na hete ettakāyeva - buddhadhammā bhavissare

aññepi vicinissāmi - ye dhammā bodhipācanā. (155)

Nhưng các pháp tạo thành quả vị Phật sẽ không chỉ có chừng ấy, ta sẽ xem xét các điều khác nữa là các pháp làm chín muồi sự giác ngộ.

Vicinanto tadā dakkhiṃ - navamaṃ mettāpāramiṃ

pubbakehi mahesīhi - āsevitaṃ nisevitaṃ. (156)

Khi ấy, trong lúc xem xét ta đã nhận ra pháp thứ chín là sự toàn hảo về từ ái đã được các vị đại ẩn sĩ tiền bối thực hành, gắn bó.

Imaṃ tvaṃ navamaṃ tāva - daḷhaṃ katvā samādiya

mettāya asamo hohi - yadi bodhiṃ pattumicchasi. (157)

Ngươi hãy củng cố và thọ trì cho được pháp thứ chín này. Hãy là không so đo với lòng từ ái nếu ngươi muốn đạt được quả vị Giác Ngộ.

Yathāpi udakaṃ nāma - kalyāṇe pāpake jane

samaṃ pharati sītena - pavāheti rajomalaṃ. (158)

Cũng giống như nước tẩy sạch bụi bặm cáu ghét, và đem lại sự mát mẻ cho những người hiền những kẻ ác một cách bình đẳng.

Tatheva tvaṃ hitāhite - samaṃ mettāya bhāvaya

mettāpāramitaṃ gantvā - sambodhiṃ pāpuṇissasi. (159)

Tương tợ y như thế, ngươi hãy phát triển tâm từ ái một cách bình đẳng đối với người thân hay kẻ nghịch. Sau khi đạt được sự toàn hảo về từ ái ngươi sẽ thành tựu quả vị Toàn Giác.

Na hete ettakāyeva - buddhadhammā bhavissare

aññepi vicinissāmi - ye dhammā bodhipācanā. (160)

Nhưng các pháp tạo thành quả vị Phật sẽ không chỉ có chừng ấy, ta sẽ xem xét các điều khác nữa là các pháp làm chín muồi sự giác ngộ.

Vicinanto tadā dakkhiṃ - dasamaṃ upekkhāpāramiṃ

pubbakehi mahesīhi - āsevitaṃ nisevitaṃ. (161)

Khi ấy, trong lúc xem xét ta đã nhận ra pháp thứ mười là sự toàn hảo về hành xả đã được các vị đại ẩn sĩ tiền bối thực hành, gắn bó.

Imaṃ tvaṃ dasamaṃ tāva - daḷhaṃ katvā samādiya

tulābhūto daḷho hutvā - sambodhiṃ pāpuṇissasi. (162)

Ngươi hãy củng cố và thọ trì cho được pháp thứ mười này. Được cân bằng và trở nên vững chải, ngươi sẽ thành tựu quả vị Toàn Giác.

Yathāpi paṭhavī nāma - nikkhittaṃ asuciṃ suciṃ

upekkhati ubhopete - kodhānunayavajjitā. (163)

Cũng giống như trái đất bình thản đối với vật dơ vật sạch đã được ném xuống, không phạm vào cả hai điều là giận dữ hay ưu đãi ấy.

Tatheva tvaṃ sukhadukkhe - tulābhūto sadā bhava

upekkhāpāramitaṃ gantvā - sambodhiṃ pāpuṇissasi. (164)

Tương tợ y như thế, ngươi hãy luôn luôn giữ trạng thái cân bằng đối với lạc và khổ, sau khi đạt đến sự toàn hảo về hành xả ngươi sẽ thành tựu quả vị Toàn Giác.

Ettakāyeva te loke - ye dhammā bodhipācanā

taduddhaṃ natthi aññatra - daḷhaṃ tattha patiṭṭhahi. (165)

Các pháp làm chín muồi sự giác ngộ ở thế gian chỉ có chừng ấy, không có pháp nào khác hơn thế nữa. Ngươi hãy thiết lập bền vững trong các pháp ấy.

Ime dhamme sammasato - sabhāvasarasalakkhaṇe

dhammatejena vasudhā - dasasahassī pakampatha. (166)

Trong khi ta đang suy nghiệm các pháp này về bản thể, tính chất, và đặc điểm, do oai lực của các pháp quả đất và mười ngàn thế giới đã rúng động.

Calati ravati paṭhavī - ucchuyantaṃva pīḷitaṃ

telayantaṃ yathā cakkaṃ - evaṃ kampati medanī. (167)

Quả đất lay động gào thét như là máy ép mía bị khuấy rối. Máy ép dầu có bánh xe rung chuyển như thế nào thì trái đất rung động như thế ấy.

Yāvatā parisā āsi - buddhassa parivesane

pavedhamānā sā tattha - mucchitā seti bhūmiyaṃ. (168)

Cho đến nhóm người ở tại nơi dâng cúng vật thực đến đức Phật, trong lúc run rẩy họ bị choáng váng rồi nằm dài trên mặt đất tại nơi ấy.

Ghaṭānekasahassāni - kumbhīnañca satā bahū

sañcuṇṇamathitā tattha - aññamaññaṃ paghaṭṭitā. (169)

Hàng ngàn hũ đựng nước và nhiều trăm chiếc lu va chạm lẫn nhau bị vỡ tan, bị nghiền nát ở tại nơi ấy.

Ubbiggā tasitā bhītā - bhantā byathitamānasā

mahājanā samāgamma - dīpaṅkaramupāgamuṃ. (170)

Với tâm trí lo âu, sợ hãi, hoảng hốt, hồi hộp, bối rối, dân chúng đã tụ hội lại rồi đi đến gặp (đức Phật) Dīpaṅkara (hỏi rằng):

Kiṃ bhavissati lokassa - kalyāṇaṃ atha pāpakaṃ

sabbo upadduto loko - taṃ vinodehi cakkhumā. (171)

Điều gì sẽ xảy ra ở thế gian? Là điều tốt hay điều xấu? Toàn bộ thế gian bị khuấy động, xin bậc Hữu Nhãn hãy xua tan điều ấy.”

Tesaṃ tadā saññāpesi - dīpaṅkaro mahāmuni

visaṭṭhā hotha mā bhātha - imasmiṃ paṭhavikampane. (172)

Khi ấy, bậc Đại Hiền Triết Dīpaṅkara đã giải thích rõ cho họ rằng: “Hãy yên tâm. Chớ có hoảng hốt về việc động đất này.

Yamahaṃ ajja byākāsiṃ - buddho loke bhavissati

eso sammasatī dhammaṃ - pubbakaṃ jinasevitaṃ. (173)

Người mà hôm nay ta công bố sẽ trở thành vị Phật ở thế gian, người ấy suy nghiệm về pháp đã được thực hành bởi các đấng Chiến Thắng thời quá khứ.

Tassa sammasato dhammaṃ - buddhabhūmimasesato

tenāyaṃ kampatī paṭhavī - dasasahassī sadevake. (174)

Trong khi vị ấy đang suy nghiệm về pháp là nền tảng của chư Phật không có thiếu sót. Vì thế quả đất này với mười ngàn thế giới luôn cả chư thiên đã rúng động.”

Buddhassa vacanaṃ sutvā - mano nibbāti tāvade

sabbe maṃ upasaṅkamma - punapi abhivandisuṃ. (175)

Sau khi lắng nghe lời nói của đức Phật, lập tức tâm (mọi người) được lắng dịu. Tất cả đã đến gần ta rồi cũng đã đảnh lễ lần nữa.

Samādayitvā buddhaguṇaṃ - daḷhaṃ katvāna mānasaṃ

dīpaṅkaraṃ namassitvā - āsanā vuṭṭhahiṃ tadā. (176)

Sau khi đã thọ trì đức hạnh của chư Phật và lập tâm kiên cố, khi ấy ta đã cúi lạy (đức Phật) Dīpaṅkara và đã từ chỗ ngồi đứng dậy.

Dibbaṃ mānussikaṃ pupphaṃ - devā mānusakā ubho

samokiranti pupphehi - vuṭṭhahantassa āsanā. (177)

Với những bông hoa, cả hai hạng chư thiên và nhân loại rải rắc bông hoa của cõi trời và của loài người xuống Sumedha đang từ chỗ ngồi đứng dậy.

Vedayanti ca te sotthiṃ - devā mānusakā ubho

mahantaṃ patthitaṃ tuyhaṃ - taṃ labhassu yathicchitaṃ. (178)

Và cả hai hạng chư thiên và nhân loại ấy phát biểu lời chúc tốt lành rằng: “Lời phát nguyện của ngài thật vĩ đại. Mong rằng ngài sẽ đạt được điều ấy theo như ước muốn.

Sabbītiyo vivajjantu - soko rogo vivajjatu

mā te bhavatvantarāyo - phussa khippaṃ bodhimuttamaṃ. (179)

Mong rằng tất cả điều rủi ro đều được xa lánh. Mong rằng sầu não, bệnh tật được tiêu trừ. Mong rằng sự nguy hiểm đừng xảy đến cho ngài. Ngài hãy mau mau đạt đến quả vị Giác Ngộ tối thượng.

Yathāpi samaye sampatte - pupphanti pupphino dumā

tatheva tvaṃ mahāvīra - buddhañāṇena pupphasi. (180)

Cũng giống như cây cho hoa nở hoa khi đến mùa, tương tợ y như thế, hỡi đấng Đại Hùng, xin ngài hãy trổ hoa với trí tuệ của vị Phật.

Yathā ye keci sambuddhā - pūrayuṃ dasapāramiṃ

tatheva tvaṃ mahāvīra - pūraya dasapāramiṃ. (181)

Giống như bất cứ các vị nào là Toàn Giác đã làm tròn đủ sự toàn hảo của mười pháp, tương tợ y như thế, hỡi đấng Đại Hùng, xin ngài hãy làm tròn đủ sự toàn hảo của mười pháp.

Yathā ye keci sambuddhā - bodhimaṇḍamhi bujjhare

tatheva tvaṃ mahāvīra - bujjhassu jinabodhiyaṃ. (182)

Giống như bất cứ các vị nào là Toàn Giác đã giác ngộ ở khuôn viên cội Bồ Đề, tương tợ y như thế, hỡi đấng Đại Hùng, xin ngài hãy giác ngộ ở cội Bồ Đề của đấng Chiến Thắng.

Yathā ye keci sambuddhā - dhammacakkaṃ pavattayuṃ

tatheva tvaṃ mahāvīra - dhammacakkaṃ pavattaya. (183)

Giống như bất cứ các vị nào là Toàn Giác đã chuyển vận bánh xe Chánh Pháp, tương tợ y như thế, hỡi đấng Đại Hùng, xin ngài hãy chuyển vận bánh xe Chánh Pháp.

Puṇṇamāyaṃ yathā cando - paripuṇṇo virocati

tatheva tvaṃ puṇṇamano - viroca dasasahassiyaṃ. (184)

Giống như mặt trăng vào ngày rằm là đầy đặn và chiếu sáng, tương tợ y như thế, xin ngài hãy là vẹn toàn và chiếu sáng mười ngàn thế giới.

Rāhumutto yathā suriyo - tāpena atirocati

tatheva lokā muñcitvā - viroca siriyā tuvaṃ. (185)

Giống như mặt trời thoát khỏi thần Rāhu[22] thì vô cùng rạng rỡ với nguồn năng lượng, tương tợ y như thế sau khi thoát ra khỏi thế gian xin ngài hãy tỏa sáng với sự vinh quang.

Yathā yā kāci nadiyo - osaranti mahodadhiṃ

evaṃ sadevakā lokā - osaranti tavantike. (186)

Giống như mọi con sông đều chảy xuôi về biển cả, tương tợ như thế các thế gian luôn cả chư thiên xuôi giòng trong sự hiện diện của Ngài.”

Tehi thutippasattho so - dasadhamme samādiya

te dhamme paripūrento - pavanaṃ pāvisī tadāti. (187)

Khi ấy, được họ tán dương và ca ngợi, sau khi thọ trì mười pháp và trong khi làm tròn đủ các pháp ấy, vị ấy đã tiến vào khu rừng thẳm.

Sumedhakathā niṭṭhitā.

Dứt phần nói về Sumedha.

--ooOoo--

Tadā te bhojayitvāna - sasaṅghaṃ lokanāyakaṃ

upagañchuṃ saraṇaṃ tassa - dīpaṅkarassa satthuno. (188)

Kế đến, sau khi đã dâng vật thực đến đấng Lãnh Đạo Thế Gian cùng với hội chúng (tỳ khưu), họ đã đi đến nương nhờ (quy y) bậc Đạo Sư Dīpaṅkara ấy.

Saraṇāgamane kañci - nivesesi tathāgato

kañci pañcasu sīlesu - sīle dasavidhe paraṃ. (189)

Đức Như Lai đã an lập người này vào việc nương nhờ, người kia vào năm giới, người khác vào mười giới.

Kassaci deti sāmaññaṃ - caturo phalamuttame

kassaci asame dhamme - deti so paṭisambhidā. (190)

Ngài ban cho vị này tư cách sa-môn trong bốn quả vị tối thượng. Ngài ban cho vị kia tuệ phân tích thuộc về các pháp không gì sánh kịp.

Kassaci varasamāpattiyo - aṭṭha deti narāsabho

tisso kassaci vijjāyo - chaḷabhiññā pavecchati. (191)

Đấng Nhân Ngưu ban cho người này tám tầng thiền quý báu, ban tặng cho người kia ba minh, sáu thắng trí (lục thông).

Tena yogena janakāyaṃ - ovadati mahāmuni

tena vitthārikaṃ āsi - lokanāthassa sāsanaṃ. (192)

Bậc Đại Hiền Triết giáo huấn đám đông bằng phương thức ấy. Nhờ vậy, Giáo Pháp của đấng Lãnh Đạo Thế Gian đã được phổ biến rộng rãi.


Tỳ khưu Nguyệt Thiên dịch