Thứ Bảy, 29 tháng 10, 2011

Giáo trình Tam Tạng Trích Giảng


Tạng Luật

NGÔI CHÙA ĐẦU TIÊN CỦA PHẬT GIÁO



Tụng phẩm thứ tư

[56] Sau đó, khi đã ngự tại Uruvelā theo như ý thích, đức Thế Tôn đã ra đi du hành về phía thành Rājagaha (Vương Xá) cùng với đại chúng tỳ khưu gồm có một ngàn vị tỳ khưu, hết thảy tất cả đều là đạo sĩ bện tóc trước đây. Trong khi tuần tự du hành, ngài đã ngự đến thành Rājagaha. Tại nơi đó ở thành Rājagaha, đức Thế Tôn ngự ở khu rừng Laṭṭhi, nơi điện thờ Suppatiṭṭha.

[57] Đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha (Ma Kiệt Đà) đã nghe được rằng: “Chắc chắn là ngài Sa-môn Gotama, con trai dòng Sākya (Thích Ca), từ dòng dõi Sākya đã xuất gia, đã ngự đến thành Rājagaha và trú ở khu rừng Laṭṭhi, nơi điện thờ Suppatiṭṭha. Tiếng tăm tốt đẹp về ngài Gotama ấy đã được lan rộng ra như vầy: ‘Đức Thế Tôn ấy là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Tối Thượng Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.’ Vị ấy sau khi tự mình chứng ngộ thắng trí đã công bố về thế gian này tính luôn cõi chư thiên, cõi Ma Vương, cõi Phạm thiên, cho đến dòng dõi sa-môn, bà-la-môn, chư thiên, và loài người. Vị ấy thuyết giảng Giáo Pháp toàn hảo ở đoạn đầu, toàn hảo ở đoạn giữa, và toàn hảo ở đoạn kết, thành tựu về ý nghĩa, thành tựu về văn tự, giảng giải về Phạm hạnh thanh tịnh một cách trọn vẹn và đầy đủ. Tốt thay cho việc diện kiến các vị A-la-hán như thế ấy!”

Sau đó, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha được tháp tùng bởi một trăm hai mươi ngàn[1] bà-la-môn và gia chủ người xứ Magadha đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên. Còn một trăm hai mươi ngàn bà-la-môn và gia chủ người xứ Magadha ấy, một số đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên, một số đã tỏ vẻ thân thiện với đức Thế Tôn sau khi trao đổi lời xã giao thân thiện rồi ngồi xuống ở một bên, một số đã chắp tay cúi chào đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên, một số đã xưng tên họ trước đức Thế Tôn rồi ngồi xuống ở một bên, một số có thái độ im lặng rồi ngồi xuống ở một bên. Khi ấy, một trăm hai mươi ngàn bà-la-môn và gia chủ người xứ Magadha ấy đã khởi ý điều này: “Vị đại sa-môn thực hành Phạm hạnh theo Uruvelakassapa hay là Uruvelakassapa thực hành Phạm hạnh theo vị đại sa-môn?” Khi ấy, đức Thế Tôn dùng tâm biết được ý nghĩ suy tầm của một trăm hai mươi ngàn bà-la-môn và gia chủ người xứ Magadha ấy nên đã nói với đại đức Uruvelakassapa bằng bài kệ này:

- Sau khi đã thấy gì
dân Uruvelā
nổi danh người chuộc tội
đã từ bỏ lửa thần?
Hỡi này Kassapa
ta hỏi ngươi điều này:
“Tại sao ngươi từ bỏ
việc thờ lửa của ngươi?”
- Việc cúng tế nói về
các hình sắc, âm thanh,
rồi đến các mùi vị,
dục lạc, và đàn bà.
Nhận thức các trói buộc
“Việc ấy là ghê tởm;”
vì thế, con chẳng thích
việc hy sinh cúng tế.

Đức Thế Tôn nói rằng:

- Ở đây Kassapa,
tâm ngươi không thích thú
các sắc, tiếng, mùi vị,
như thế có điều gì
ở thế giới nhân thiên
tâm ngươi được thỏa thích
nói ta nghe điều ấy.
- Đã thấy được lối đi
thanh tịnh, không tái sanh
không tội, không trói buộc
trong dục lạc, hiện hữu,
không còn sanh cõi khác,
chẳng gì lôi kéo được;
vì thế, con chẳng thích
việc hy sinh cúng tế.

[58] Sau đó, đại đức Uruvelakassapa đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y một bên vai, quỳ xuống đê đầu ở hai bàn chân của đức Thế Tôn và nói với đức Thế Tôn điều này:

- Bạch ngài, đức Thế Tôn là bậc Đạo Sư của con, con là người đệ tử. Bạch ngài, đức Thế Tôn là bậc Đạo Sư của con, con là người đệ tử.

Khi ấy, một trăm hai mươi ngàn bà-la-môn và gia chủ người xứ Magadha ấy đã khởi ý điều này: “Uruvelakassapa thực hành Phạm hạnh theo vị đại sa-môn.”

Sau đó, đức Thế Tôn dùng tâm biết được ý nghĩ suy tầm của một trăm hai mươi ngàn bà-la-môn và gia chủ người xứ Magadha ấy nên đã thuyết Pháp theo thứ lớp đến những người ấy. Tức là ngài đã giảng giải bài thuyết về bố thí, bài thuyết về giới cấm, bài thuyết về cõi trời, sự ô nhiễm hạ liệt tai hại của các dục, sự lợi ích của việc xuất ly. Khi đức Thế Tôn biết được tâm của những người ấy đã sẵn sàng, dễ uốn nắn, không còn chướng ngại, hướng thượng, tĩnh lặng, ngài đã phô bày Pháp thuyết giảng đã được chư Phật khai mở là: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Cũng giống như tấm vải sạch chưa bị vết nhơ có thể nhuộm màu một cách toàn vẹn; tương tợ như thế, ngay tại chỗ ngồi ấy Pháp nhãn không nhiễm bụi trần, không vết nhơ đã sanh khởi đến một trăm hai mươi ngàn bà-la-môn và gia chủ người xứ Magadha ấy có đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đứng đầu: “Điều gì có bản tánh được sanh lên, toàn bộ điều ấy đều có bản tánh hoại diệt.”

Mười ngàn (ekanahutaṃ) người đã tuyên bố bản thân là cư sĩ.

[59] Sau đó, khi đã thấy được Pháp, đã thành tựu được Pháp, đã hiểu được Pháp, đã thấm nhuần Pháp, hoài nghi đã không còn, sự lưỡng lự đã dứt hẳn, đã thành tựu niềm tin vào Giáo Pháp của bậc Đạo Sư, không còn cần sự trợ duyên của người khác, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã nói với đức Thế Tôn điều này:

- Bạch ngài, trước đây khi còn là hoàng tử trẫm đã có năm điều ước nguyện, giờ đây trẫm đã được toại nguyện các điều ấy. Bạch ngài, trước đây khi còn là hoàng tử trẫm đã khởi ý điều này: “Ước gì người ta tấn phong ta làm vua!” Bạch ngài, đó là điều ước nguyện thứ nhất của trẫm, giờ đây trẫm đã được toại nguyện điều ấy. “Ước gì bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đi vào vương quốc của ta!” Bạch ngài, đó là điều ước nguyện thứ nhì của trẫm, giờ đây trẫm đã được toại nguyện điều ấy. “Ước gì ta được tỏ lòng tôn kính đến đức Thế Tôn ấy!” Bạch ngài, đó là điều ước nguyện thứ ba của trẫm, giờ đây trẫm đã được toại nguyện điều ấy. “Ước gì đức Thế Tôn ấy thuyết giảng Giáo Pháp cho ta!” Bạch ngài, đó là điều ước nguyện thứ tư của trẫm, giờ đây trẫm đã được toại nguyện điều ấy. “Ước gì ta có thể hiểu được Giáo Pháp của đức Thế Tôn ấy!” Bạch ngài, đó là điều ước nguyện thứ năm của trẫm, giờ đây trẫm đã được toại nguyện điều ấy. Bạch ngài, trước đây khi còn là hoàng tử, trẫm đã có năm điều ước nguyện này; giờ đây trẫm đã được toại nguyện các điều ấy. Bạch ngài, thật là tuyệt vời! Bạch ngài, thật là tuyệt vời! Bạch ngài, giống như người có thể lật ngửa vật đã được úp lại, mở ra vật đã bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc lối, đem lại cây đèn dầu nơi bóng tối (nghĩ rằng): “Những người có mắt sẽ nhìn thấy được các hình dáng;” tương tợ như thế, Pháp đã được đức Thế Tôn chỉ rõ bằng nhiều phương tiện. Bạch ngài, trẫm đây xin quy y đức Thế Tôn, Giáo Pháp, và Hội chúng tỳ khưu. Xin đức Thế Tôn chấp nhận trẫm là nam cư sĩ đã được quy y kể từ hôm nay cho đến trọn đời. Bạch ngài, xin đức Thế Tôn nhận lời trẫm về bữa thọ trai vào ngày mai cùng với hội chúng tỳ khưu.

Đức Thế Tôn đã nhận lời bằng thái độ im lặng. Khi ấy, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha hiểu được sự nhận lời của đức Thế Tôn nên đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Thế Tôn, hướng vai phải nhiễu quanh, rồi ra đi.

[60] Sau đó, khi trải qua đêm ấy đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã cho người chuẩn bị thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm rồi sai người thông báo thời giờ đến đức Thế Tôn:

- Bạch ngài, đã đến giờ, thức ăn đã chuẩn bị xong.

Khi ấy vào buổi sáng, đức Thế Tôn đã mặc y, cầm y bát, đi vào thành Rājagaha cùng với đại chúng tỳ khưu gồm có một ngàn vị tỳ khưu, hết thảy tất cả đều là đạo sĩ bện tóc trước đây

[61] Vào lúc bấy giờ, chúa của chư thiên Sakka đã biến thành hình dáng của người thanh niên đi phía trước hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu ngâm nga những lời kệ này:

Vị đã tự điều phục
đã hoàn toàn giải thoát
cùng những vị trước đây
là đạo sĩ bện tóc
giờ đã được điều phục,
được hoàn toàn giải thoát.
Với sắc màu vàng khối,
đức Thế Tôn đi vào
thành Rājagaha.

Vị đã được tự do
đã hoàn toàn giải thoát
cùng những vị trước đây
là đạo sĩ bện tóc
giờ đã được tự do,
được hoàn toàn giải thoát.
Với sắc màu vàng khối,
đức Thế Tôn đi vào
thành Rājagaha.

Vị đã tự vượt qua
đã hoàn toàn giải thoát
cùng những vị trước đây
là đạo sĩ bện tóc
giờ đã được vượt qua,
được hoàn toàn giải thoát.
Với sắc màu vàng khối,
đức Thế Tôn đi vào
thành Rājagaha.

Vị đã được thanh tịnh
đã hoàn toàn giải thoát
cùng những vị trước đây
là đạo sĩ bện tóc
giờ đã được thanh tịnh,
được hoàn toàn giải thoát.
Với sắc màu vàng khối,
đức Thế Tôn đi vào
thành Rājagaha.

Đấng Thập Trú,[2] Thập Lực,
vị thông hiểu mười pháp,[3]
và thành đạt mười điều.[4]
một ngàn vị tháp tùng
Thế Tôn ấy đi vào
thành Rājagaha.

[62] Dân chúng khi nhìn thấy chúa của chư Thiên Sakka đã nói như vầy:

- Chàng thanh niên trẻ này thật đẹp trai! Chàng thanh niên trẻ này thật duyên dáng! Chàng thanh niên trẻ này thật dễ mến! Chàng thanh niên trẻ này là (thị giả) của ai vậy?

Khi được nói như thế, chúa của chư thiên Sakka đã nói với đám người ấy bằng bài kệ này:

Vị nào bậc trí tuệ
đã điều phục vẹn toàn,
thanh tịnh, chẳng ai bằng,
là vị A-la-hán,
đấng Thiện Thệ ở đời,
ta thị giả vị ấy.

[63] Sau đó, đức Thế Tôn đã đi đến tư dinh của đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha, sau khi đến đã ngồi xuống trên chỗ ngồi được sắp đặt sẵn cùng với hội chúng tỳ khưu. Khi ấy, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã tự tay làm hài lòng và thỏa mãn hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu với thức ăn thượng hạng loại cứng loại mềm. Đến khi đức Thế Tôn đã thọ thực xong bàn tay đã rời khỏi bình bát, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã ngồi xuống ở một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn nên ngụ ở nơi nào đây? Đối với ngài, chỗ ấy không nên xa làng mạc lắm, cũng không quá gần, thuận tiện cho việc tới lui, dân chúng có thể đi đến khi nào có ước muốn, ban ngày không đông đảo, ban đêm ít tiếng động, không nhiều gió, tách biệt với dân chúng, thích hợp cho việc thiền tịnh.” Rồi đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã khởi ý điều này: “Khu vườn Veḷuvana (Trúc Lâm) này của chúng ta là không xa làng mạc lắm, cũng không quá gần, thuận tiện cho việc tới lui, dân chúng có thể đi đến khi nào có ước muốn, ban ngày không đông đảo, ban đêm ít tiếng động, không nhiều gió, tách biệt với dân chúng, thích hợp cho việc thiền tịnh, hay là ta nên dâng khu vườn Veḷuvana đến hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu?”

Sau đó, đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha đã cầm lấy bình nước làm bằng vàng rưới nước lên tay đức Thế Tôn (nói rằng):

- Bạch ngài, trẫm dâng khu vườn Veḷuvana này đến hội chúng tỳ khưu có đức Phật đứng đầu. Xin đức Thế Tôn thọ lãnh khu vườn.

Khi ấy, đức Thế Tôn đã chỉ dạy, thức tỉnh, khuyến khích, và tạo niềm phấn khởi cho đức vua Seniya Bimbisāra xứ Magadha bằng bài Pháp thoại rồi đã từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.

Tỳ Khưu Nguyệt Thiên dịch