Chủ Nhật, 10 tháng 11, 2013
CÂN NHẮC KHÔNG PHẢI LÀ THÁI ĐỘ TIÊU CỰC
1. “Thưa ngài Nāgasena, ngài nói rằng: ‘Trong
khoảng thời gian bốn a-tăng-kỳ kiếp và một trăm ngàn kiếp, đức Như Lai đã làm
cho trí Toàn Tri được chín muồi nhằm tế độ đám đông dân chúng.’ Và thêm
nữa: ‘Tâm của vị đạt đến phẩm vị Toàn Tri đã thiên về sự không nỗ lực và
không thuyết giảng Giáo Pháp.’
Thưa ngài Nāgasena, giống như viên xạ
thủ, hoặc các học trò của viên xạ thủ, sau khi học tập thuật bắn cung vì mục
đích chiến trận trong nhiều ngày, đến khi cuộc chiến đấu lớn xảy ra thì có thể
thối lui. Thưa ngài Nāgasena, tương tợ y như thế trong khoảng thời gian bốn
a-tăng-kỳ kiếp và một trăm ngàn kiếp, đức Như Lai đã làm cho trí Toàn Tri được
chín muồi nhằm tế độ đám đông dân chúng, nhưng khi đã đạt đến phẩm vị Toàn Tri
thì Ngài đã thối lui trong việc thuyết giảng Giáo Pháp.
Thưa ngài Nāgasena, hoặc là giống như
người võ sĩ đấu vật, hoặc các học trò của người võ sĩ đấu vật, sau khi học tập
thuật đấu vật trong nhiều ngày, đến khi trận đấu lớn xảy ra thì có thể thối
lui. Thưa ngài Nāgasena, tương tợ y như thế trong khoảng thời gian bốn
a-tăng-kỳ kiếp và một trăm ngàn kiếp, đức Như Lai đã làm cho trí Toàn Tri được
chín muồi nhằm tế độ đám đông dân chúng, nhưng khi đã đạt đến phẩm vị Toàn Tri
thì Ngài đã thối lui trong việc thuyết giảng Giáo Pháp.
2. Thưa ngài Nāgasena, phải chăng đức
Như Lai đã thối lui vì sợ hãi? Hay đã thối lui vì chưa được rành rẽ? Hay đã
thối lui vì năng lực yếu kém? Hay đã thối lui vì chưa phải phẩm vị Toàn Tri? Ở
đây, điều gì là lý do? Nào, xin ngài hãy nói cho trẫm lý do nhằm vượt qua nỗi nghi
hoặc.
Thưa ngài Nāgasena, nếu trong khoảng
thời gian bốn a-tăng-kỳ kiếp và một trăm ngàn kiếp, đức Như Lai đã làm cho trí
Toàn Tri được chín muồi nhằm tế độ đám đông dân chúng, như thế thì lời nói
rằng: ‘Tâm của vị đạt đến phẩm vị Toàn Tri đã thiên về sự không nỗ lực và không
thuyết giảng Giáo Pháp’ là sai trái. Nếu tâm của vị đạt đến phẩm vị Toàn Tri đã
thiên về sự không nỗ lực và không thuyết giảng Giáo Pháp, như thế thì lời nói
rằng: ‘Trong khoảng thời gian bốn a-tăng-kỳ kiếp và một trăm ngàn kiếp, đức Như
Lai đã làm cho trí Toàn Tri được chín muồi nhằm tế độ đám đông dân chúng’ cũng
là sai trái. Câu hỏi này cũng có cả hai khía cạnh, thâm sâu, khó tháo gỡ, được
dành cho ngài. Nó nên được giải quyết bởi ngài.”
3. “Tâu đại vương, trong khoảng thời
gian bốn a-tăng-kỳ kiếp và một trăm ngàn kiếp, trí Toàn Tri đã được đức Như Lai
làm cho chín muồi nhằm tế độ đám đông dân chúng. Và tâm của vị đạt đến trí Toàn
Tri đã thiên về sự không nỗ lực và không thuyết giảng Giáo Pháp. Vả lại, sau
khi nhìn thấy tính chất thâm sâu, khôn khéo, khó thấy, khó giác ngộ, tinh vi,
khó thấu triệt của Giáo Pháp, trạng thái ham thích tiềm ẩn của chúng sanh, và
tính chất bám víu cứng nhắc vào quan điểm của chính mình, (thì nghĩ rằng):
‘(Thuyết giảng) về cái gì? Bằng cách nào?’ và tâm đã thiên về sự không nỗ lực
và không thuyết giảng Giáo Pháp. Điều này chính là sự suy nghĩ và tâm ý về việc
giác ngộ của chúng sanh.
Tâu đại vương, giống như người thầy
thuốc phẫu thuật, sau khi đi đến gặp người bị hành hạ bởi nhiều căn bệnh, thì
suy nghĩ như vầy: ‘Bằng cách thức gì, hoặc với phương thuốc nào thì căn bệnh
của người này có thể được lắng xuống?’ Tâu đại vương, tương tợ y như thế đối
với đức Như Lai, sau khi nhìn thấy loài người bị hành hạ bởi mọi căn bệnh phiền
não và tính chất thâm sâu, khôn khéo, khó thấy, khó giác ngộ, tinh vi, khó thấu
triệt của Giáo Pháp, (thì nghĩ rằng): ‘(Thuyết giảng) về cái gì? Bằng cách
nào?’ và tâm đã thiên về sự không nỗ lực và không thuyết giảng Giáo Pháp. Điều
này chính là sự suy nghĩ và tâm ý về việc giác ngộ của chúng sanh.
4. Tâu đại vương, giống như đối với đức
vua dòng Sát-đế-lỵ đã được rưới nước thơm ở đầu (làm lễ phong vương), sau khi
nhìn thấy những người giữ cổng, lính gác, quần thần, thị dân, nhân công, binh
lính, quan đại thần, hoàng tộc, và thuộc hạ thì có thể khởi tâm như vầy: ‘Trẫm
sẽ hậu đãi cái gì cho những người này? Bằng cách nào?’ Tâu đại vương, tương tợ
y như thế đối với đức Như Lai, sau khi nhìn thấy tính chất thâm sâu, khôn khéo,
khó thấy, khó giác ngộ, tinh vi, khó thấu triệt của Giáo Pháp, trạng thái ham
thích tiềm ẩn của chúng sanh, và tính chất bám víu cứng nhắc vào quan điểm của
chính mình, (thì nghĩ rằng): ‘(Thuyết giảng) về cái gì? Bằng cách nào?’ và tâm
đã thiên về sự không nỗ lực và không thuyết giảng Giáo Pháp. Sự suy nghĩ và tâm
ý về việc giác ngộ của chúng sanh chính là điều này.
5. Tâu đại vương, thêm nữa điều này là
quy luật của các đức Như Lai, là việc các Ngài thuyết giảng Giáo Pháp khi được
Phạm Thiên thỉnh cầu. Vậy trong trường hợp ấy, điều gì là lý do? Vào lúc bấy
giờ, tất cả các vị đạo sĩ khổ hạnh, du sĩ, Sa-môn, Bà-la-môn là những người thờ
phụng đấng Brahmā, kính trọng đấng Brahmā, nương tựa đấng Brahmā. Do đó, (nghĩ
rằng): ‘Với sự hạ mình của vị (Brahmā) có năng lực, có danh vọng, được biết
tiếng, được nổi tiếng, hơn hẳn, được vượt trội ấy, thì thế gian luôn cả chư
Thiên sẽ hạ mình, sẽ tin tưởng, sẽ quy thuận (Ta).’ Tâu đại vương, và vì lý do
này mà đức Như Lai thuyết giảng Giáo Pháp khi được Phạm Thiên thỉnh cầu.
Tâu đại vương, giống như vị vua nào đó,
hoặc quan đại thần của vị vua, hạ mình, thể hiện sự cung kính đối với người
nào, do sự hạ mình của vị ấy đối với người có năng lực trội hơn, mà số dân
chúng còn lại hạ mình, thể hiện sự cung kính. Tâu đại vương, tương tợ y như thế
khi Phạm Thiên hạ mình đối với các đức Như Lai thì thế gian luôn cả chư Thiên
sẽ hạ mình. Tâu đại vương, thế gian tôn vinh bậc đã được tôn vinh. Do đó, vị
Phạm Thiên ấy thỉnh cầu tất cả các đức Như Lai về việc thuyết giảng Giáo Pháp.
Và vì lý do ấy, các đức Như Lai thuyết giảng Giáo Pháp khi được Phạm Thiên
thỉnh cầu.”
“Thưa ngài Nāgasena, tốt lắm! Câu hỏi
đã khéo được tháo gỡ, việc giải thích thật là tuyệt hảo. Trẫm chấp nhận điều
này đúng theo như vậy.”