Thứ Hai, 23 tháng 9, 2013
THANH TỊNH
LÀ NỀN TẢNG CỦA TUỆ GIÁC
2. Sabbaññubhāvapañho
2. ‘‘Bhante nāgasena, buddho sabbaññū’’ti? ‘‘Āma, mahārāja, bhagavā
sabbaññū, na ca bhagavato satataṃ samitaṃ ñāṇadassanaṃ paccupaṭṭhitaṃ,
āvajjanapaṭibaddhaṃ bhagavato sabbaññutañāṇaṃ, āvajjitvā yadicchakaṃ
jānātī’’ti. ‘‘Tena hi, bhante nāgasena, buddho asabbaññūti. Yadi tassa
pariyesanāya sabbaññutañāṇaṃ hotī’’ti. ‘‘Vāhasataṃ kho, mahārāja, vīhīnaṃ aḍḍhacūḷañca
vāhā vīhisattambaṇāni dve ca tumbā ekaccharākkhaṇe pavattacittassa ettakā vīhī
lakkhaṃ ṭhapīyamānā [ṭhapīyamāne (sī. pī.)]parikkhayaṃ pariyādānaṃ gaccheyyuṃ?
‘‘Tatrime sattavidhā cittā pavattanti, ye te, mahārāja, sarāgā sadosā
samohā sakilesā abhāvitakāyā abhāvitasīlā abhāvitacittā abhāvitapaññā, tesaṃ taṃ
cittaṃ garukaṃ uppajjati dandhaṃ pavattati. Kiṃ kāraṇā? Abhāvitattā cittassa.
Yathā, mahārāja, vaṃsanāḷassa vitatassa visālassa vitthiṇṇassa saṃsibbitavisibbitassa
sākhājaṭājaṭitassa ākaḍḍhiyantassa garukaṃ hoti āgamanaṃ dandhaṃ. Kiṃ kāraṇā?
Saṃsibbitavisibbitattā sākhānaṃ. Evameva kho, mahārāja, ye te sarāgā sadosā
samohā sakilesā abhāvitakāyā abhāvitasīlā abhāvitacittā abhāvitapaññā, tesaṃ taṃ
cittaṃ garukaṃ uppajjati dandhaṃ pavattati. Kiṃ kāraṇā? Saṃsibbitavisibbitattā
kilesehi, idaṃ paṭhamaṃ cittaṃ.
1. “Thưa ngài Nāgasena,
có phải đức Phật là đấng Toàn Tri?”
“Tâu đại vương, đúng vậy.
Đức Thế Tôn là đấng Toàn Tri. Tuy nhiên đối với đức Thế Tôn, sự biết và thấy
không hiện diện một cách thường xuyên, liên tục. Trí Toàn Tri của đức Thế Tôn gắn
liền vào sự hướng tâm. Sau khi hướng tâm thì Ngài biết theo như ý muốn.”
“Thưa ngài Nāgasena, như
thế thì đức Phật là không Toàn Tri, nếu Trí Toàn Tri của Ngài là do sự suy tầm.”
“Tâu đại vương, có một
trăm xe lúa, mỗi xe là bảy tạ rưỡi và hai giạ lúa.[2] Chừng ấy trăm ngàn hạt
lúa có thể được xác định, có thể đạt đến kết quả cuối cùng bởi tâm được vận
hành trong khoảng thời gian một khảy móng tay. Ở đây, có bảy loại tâm này vận
hành: Tâu đại vương, những người nào còn luyến ái, còn sân hận, còn si mê, còn
phiền não, có thân chưa được tu tập, có giới chưa được tu tập, có tâm chưa được
tu tập, có tuệ chưa được tu tập, tâm ấy của những người ấy sanh lên một cách
trì trệ, vận hành một cách chậm chạp. Vì lý do gì? Vì tính chất chưa được tu tập
của tâm.
Tâu đại vương, giống như
đối với cành tre được tỏa ra, rậm rạp, lan rộng, bị kết chùm chưa được gỡ ra, bị
rối rắm với những cụm cành lá, trong khi được lôi kéo thì sự chuyển động là trì
trệ, chậm chạp. Vì lý do gì? Vì tính chất kết chùm chưa được gỡ ra của các
cành. Tâu đại vương, tương tợ y như thế những người nào còn luyến ái, còn sân hận,
còn si mê, còn phiền não, có thân chưa được tu tập, có giới chưa được tu tập,
có tâm chưa được tu tập, có tuệ chưa được tu tập, tâm ấy của những người ấy
sanh lên một cách trì trệ, vận hành một cách chậm chạp. Vì lý do gì? Vì tính chất
kết chùm chưa được gỡ ra bởi các phiền não. Đây là loại tâm thứ nhất.
‘‘Tatridaṃ dutiyaṃ cittaṃ
vibhattamāpajjati – ye te, mahārāja, sotāpannā pihitāpāyā diṭṭhippattā
viññātasatthusāsanā, tesaṃ taṃ cittaṃ tīsu ṭhānesu lahukaṃ uppajjati lahukaṃ pavattati. Uparibhūmīsu garukaṃ uppajjati dandhaṃ
pavattati. Kiṃ kāraṇā? Tīsu ṭhānesu cittassa parisuddhattā upari kilesānaṃ
appahīnattā. Yathā, mahārāja, vaṃsanāḷassa tipabbagaṇṭhiparisuddhassa upari
sākhājaṭājaṭitassa ākaḍḍhiyantassa yāva tipabbaṃ tāva lahukaṃ eti, tato upari
thaddhaṃ. Kiṃ kāraṇā? Heṭṭhā parisuddhattā upari sākhājaṭājaṭitattā. Evameva
kho, mahārāja, ye te sotāpannā pihitāpāyā diṭṭhippattā viññātasatthusāsanā,
tesaṃ taṃ cittaṃ tīsu ṭhānesu lahukaṃ uppajjati lahukaṃ pavattati, uparibhūmīsu
garukaṃ uppajjati dandhaṃ pavattati. Kiṃ kāraṇā? Tīsu ṭhānesu cittassa
parisuddhattā upari kilesānaṃ appahīnattā, idaṃ dutiyaṃ cittaṃ.
2. Ở đây, có loại tâm thứ
nhì này đạt được sự xếp loại. Tâu đại vương, những người nào là bậc Nhập Lưu,
có các cõi khổ đã được đóng lại, đã đạt được Chánh Kiến, đã nhận thức được Giáo
Pháp của bậc Đạo Sư, tâm ấy của những người ấy sanh lên một cách nhẹ nhàng ở ba
trường hợp,[3] sanh lên một cách trì trệ, vận hành một cách chậm chạp ở các cảnh
giới bậc trên. Vì lý do gì? Vì tính chất đã được trong sạch của tâm ở ba trường
hợp, vì tính chất chưa được dứt bỏ của các phiền não bậc trên.
Tâu đại vương, giống như
đối với cành tre đã được tỉa sạch các mắt ở ba lóng, còn bị rối rắm bởi những cụm
cành lá ở phía trên, trong khi được lôi kéo thì di chuyển một cách nhẹ nhàng chỉ
đến ba lóng, từ đó trở lên thì bị dính cứng. Vì lý do gì? Vì tính chất đã được
tỉa sạch ở phần dưới, vì tính chất rối rắm bởi những cụm cành lá ở phía trên.
Tâu đại vương, tương tợ
y như thế những người nào là bậc Nhập Lưu, có các cõi khổ đã được đóng lại, đã
đạt được Chánh Kiến, đã nhận thức được Giáo Pháp của bậc Đạo Sư, tâm ấy của những
người ấy sanh lên một cách nhẹ nhàng ở ba trường hợp, sanh lên một cách trì trệ,
vận hành một cách chậm chạp ở các cảnh giới bậc trên. Vì lý do gì? Vì tính chất
đã được trong sạch ở ba trường hợp, vì tính chất chưa được dứt bỏ của các phiền
não bậc trên. Đây là loại tâm thứ nhì.
‘‘Tatridaṃ tatiyaṃ cittaṃ
vibhattamāpajjati – ye te, mahārāja, sakadāgāmino, yesaṃ rāgadosamohā
tanubhūtā, tesaṃ taṃ cittaṃ pañcasu ṭhānesu lahukaṃ uppajjati lahukaṃ
pavattati, uparibhūmīsu garukaṃ uppajjati dandhaṃ pavattati. Kiṃ kāraṇā?
Pañcasu ṭhānesu cittassa parisuddhattā upari kilesānaṃ appahīnattā. Yathā,
mahārāja, vaṃsanāḷassa pañcapabbagaṇṭhiparisuddhassa upari sākhājaṭājaṭitassa
ākaḍḍhiyantassa yāva pañcapabbaṃ tāva lahukaṃ eti, tato upari thaddhaṃ. Kiṃ
kāraṇā? Heṭṭhā parisuddhattā upari sākhājaṭājaṭitattā. Evameva kho, mahārāja,
ye te sakadāgāmino, yesaṃ rāgadosamohā tanubhūtā, tesaṃ taṃ cittaṃ pañcasu ṭhānesu
lahukaṃ uppajjati lahukaṃ pavattati, uparibhūmīsu garukaṃ uppajjati dandhaṃ
pavattati. Kiṃ kāraṇā? Pañcasu ṭhānesu cittassa parisuddhattā upari kilesānaṃ
appahīnattā, idaṃ tatiyaṃ cittaṃ.
3. Ở đây, có loại tâm thứ
ba này đạt được sự xếp loại. Tâu đại vương, những người nào là bậc Nhất Lai, có
sự luyến ái, sân hận, si mê ở trạng thái giảm thiểu, tâm ấy của những người ấy
sanh lên một cách nhẹ nhàng, vận hành một cách nhẹ nhàng ở năm trường hợp,[4]
sanh lên một cách trì trệ, vận hành một cách chậm chạp ở các cảnh giới bậc
trên. Vì lý do gì? Vì tính chất đã được trong sạch của tâm ở năm trường hợp, vì
tính chất chưa được dứt bỏ của các phiền não bậc trên. Tâu đại vương, giống như
đối với cành tre đã được tỉa sạch các mắt ở năm lóng, còn bị rối rắm bởi những
cụm cành lá ở phía trên, trong khi được lôi kéo thì di chuyển một cách nhẹ
nhàng chỉ đến năm lóng, từ đó trở lên thì bị dính cứng. Vì lý do gì? Vì tính chất
đã được tỉa sạch ở phần dưới, vì tính chất rối rắm bởi những cụm cành lá ở phía
trên. Tâu đại vương, tương tợ y như thế những người nào là bậc Nhất Lai, có sự
luyến ái, sân hận, si mê ở trạng thái giảm thiểu, tâm ấy của những người ấy
sanh lên một cách nhẹ nhàng, vận hành một cách nhẹ nhàng ở năm trường hợp, sanh
lên một cách trì trệ, vận hành một cách chậm chạp ở các cảnh giới bậc trên. Vì
lý do gì? Vì tính chất đã được trong sạch của tâm ở năm trường hợp. Đây là loại
tâm thứ ba.
‘‘Tatridaṃ catutthaṃ cittaṃ
vibhattamāpajjati – ye te, mahārāja, anāgāmino, yesaṃ pañcorambhāgiyāni
saññojanāni pahīnāni, tesaṃ taṃ cittaṃ dasasu ṭhānesu lahukaṃ uppajjati lahukaṃ
pavattati, uparibhūmīsu garukaṃ uppajjati dandhaṃ pavattati. Kiṃ kāraṇā? Dasasu
ṭhānesu cittassa parisuddhattā upari kilesānaṃ appahīnattā. Yathā, mahārāja, vaṃsanāḷassa
dasapabbagaṇṭhiparisuddhassa upari sākhājaṭājaṭitassa ākaḍḍhiyantassa yāva
dasapabbaṃ tāva lahukaṃ eti, tato upari thaddhaṃ. Kiṃ kāraṇā? Heṭṭhā
parisuddhattā upari sākhājaṭājaṭitattā. Evameva kho, mahārāja, ye te anāgāmino,
yesaṃ pañcorambhāgiyāni saññojanāni pahīnāni, tesaṃ taṃ cittaṃ dasasu ṭhānesu
lahukaṃ uppajjati lahukaṃ pavattati, uparibhūmīsu garukaṃ uppajjati dandhaṃ
pavattati. Kiṃ kāraṇā? Dasasu ṭhānesu cittassa parisuddhattā upari kilesānaṃ
appahīnattā, idaṃ catutthaṃ cittaṃ.
4. Ở đây, có loại tâm thứ
tư này đạt được sự xếp loại. Tâu đại vương, những người nào là bậc Bất Lai, có
năm sự ràng buộc ở phần dưới đã được dứt bỏ, tâm ấy của những người ấy sanh lên
một cách nhẹ nhàng, vận hành một cách nhẹ nhàng ở mười trường hợp,[5] sanh lên
một cách trì trệ, vận hành một cách chậm chạp ở các cảnh giới bậc trên. Vì lý
do gì? Vì tính chất đã được trong sạch của tâm ở mười trường hợp, vì tính chất
chưa được dứt bỏ của các phiền não bậc trên. Tâu đại vương, giống như đối với
cành tre đã được tỉa sạch các mắt ở mười lóng, còn bị rối rắm bởi những cụm
cành lá ở phía trên, trong khi được lôi kéo thì di chuyển một cách nhẹ nhàng chỉ
đến mười lóng, từ đó trở lên thì bị dính cứng. Vì lý do gì? Vì tính chất đã được
tỉa sạch ở phần dưới, vì tính chất rối rắm bởi những cụm cành lá ở phía trên.
Tâu đại vương, tương tợ y như thế những người nào là bậc Bất Lai, có năm sự
ràng buộc ở phần dưới đã được dứt bỏ, tâm ấy của những người ấy sanh lên một
cách nhẹ nhàng, vận hành một cách nhẹ nhàng ở mười trường hợp, sanh lên một
cách trì trệ, vận hành một cách chậm chạp ở các cảnh giới bậc trên. Vì lý do
gì? Vì tính chất đã được trong sạch của tâm ở mười trường hợp, vì tính chất
chưa được dứt bỏ của các phiền não bậc trên. Đây là loại tâm thứ tư.
‘‘Tatridaṃ pañcamaṃ cittaṃ
vibhattamāpajjati – ye te, mahārāja, arahanto khīṇāsavā dhotamalā vantakilesā
vusitavanto katakaraṇīyā ohitabhārā anuppattasadatthā parikkhīṇabhavasaññojanā
pattapaṭisambhidā sāvakabhūmīsu parisuddhā, tesaṃ taṃ cittaṃ sāvakavisaye
lahukaṃ uppajjati lahukaṃ pavattati, paccekabuddhabhūmīsu garukaṃ uppajjati
dandhaṃ pavattati. Kiṃ kāraṇā? Parisuddhattā sāvakavisaye, aparisuddhattā paccekabuddhavisaye.
Yathā, mahārāja, vaṃsanāḷassa sabbapabbagaṇṭhiparisuddhassa ākaḍḍhiyantassa
lahukaṃ hoti āgamanaṃ adandhaṃ. Kiṃ kāraṇā? Sabbapabbagaṇṭhiparisuddhattā
agahanattā vaṃsassa. Evameva kho, mahārāja, ye te arahanto khīṇāsavā dhotamalā
vantakilesā vusitavanto katakaraṇīyā ohitabhārā anuppattasadatthā parikkhīṇabhavasaññojanā
pattapaṭisambhidā sāvakabhūmīsu parisuddhā, tesaṃ taṃ cittaṃ sāvakavisaye
lahukaṃ uppajjati lahukaṃ pavattati, paccekabuddhabhūmīsu garukaṃ uppajjati
dandhaṃ pavattati. Kiṃ kāraṇā? Parisuddhattā sāvakavisaye, aparisuddhattā
paccekabuddhavisaye, idaṃ pañcamaṃ cittaṃ.
5. Ở đây, có loại tâm thứ
năm này đạt được sự xếp loại. Tâu đại vương, những người nào là bậc A-la-hán,
có các lậu hoặc đã được cạn kiệt, có các bợn nhơ đã được rửa sạch, có các phiền
não đã được ói ra, đã được hoàn mãn, có các việc cần làm đã làm, có các gánh nặng
đã được đặt xuống, có mục đích của mình đã được đạt đến, có các sự trói buộc ở
hữu đã được đoạn tận, có các tuệ phân tích đã đạt, đã được trong sạch ở các cảnh
giới của vị Thinh Văn, tâm của những người ấy sanh lên một cách nhẹ nhàng, vận
hành một cách nhẹ nhàng ở phạm vi của vị Thinh Văn, sanh lên một cách trì trệ,
vận hành một cách chậm chạp ở cảnh giới của vị Phật Độc Giác. Vì lý do gì? Vì
tính chất đã được trong sạch ở phạm vi của vị Thinh Văn, vì tính chất chưa được
trong sạch của tâm ở phạm vi của vị Phật Độc Giác. Tâu đại vương, giống như đối
với cành tre đã được tỉa sạch các mắt ở tất cả các lóng, trong khi được lôi kéo
thì di chuyển một cách nhẹ nhàng, không bị dính cứng. Vì lý do gì? Vì tính chất
đã được tỉa sạch ở tất cả các lóng, vì tính chất không còn bám víu của thân cây
tre. Tâu đại vương, tương tợ y như thế những người nào là bậc A-la-hán, có các
lậu hoặc đã được cạn kiệt, có các bợn nhơ đã được rửa sạch, có các phiền não đã
được ói ra, đã được hoàn mãn, có các việc cần làm đã làm, có các gánh nặng đã
được đặt xuống, có mục đích của bản thân đã được đạt đến, có các sự trói buộc ở
hữu đã được đoạn tận, có các tuệ phân tích đã đạt, đã được trong sạch ở các cảnh
giới của vị Thinh Văn, tâm ấy của những người ấy sanh lên một cách nhẹ nhàng, vận
hành một cách nhẹ nhàng ở phạm vi của vị Thinh Văn, sanh lên một cách trì trệ,
vận hành một cách chậm chạp ở cảnh giới của vị Phật Độc Giác. Vì lý do gì? Vì
tính chất đã được trong sạch ở phạm vi của vị Thinh Văn, vì tính chất chưa được
trong sạch của tâm ở phạm vi của vị Phật Độc Giác. Đây là loại tâm thứ năm.
‘‘Tatridaṃ chaṭṭhaṃ cittaṃ
vibhattamāpajjati – ye te, mahārāja, paccekabuddhā sayambhuno anācariyakā
ekacārino khaggavisāṇakappā sakavisaye parisuddhavimalacittā, tesaṃ taṃ cittaṃ
sakavisaye lahukaṃ uppajjati lahukaṃ pavattati, sabbaññubuddhabhūmīsu garukaṃ
uppajjati dandhaṃ pavattati. Kiṃ kāraṇā? Parisuddhattā sakavisaye mahantattā
sabbaññubuddhavisayassa. Yathā, mahārāja, puriso sakavisayaṃ parittaṃ nadiṃ
rattimpi divāpi yadicchaka acchambhito otareyya, atha parato mahāsamuddaṃ
gambhīraṃ vitthataṃ agādhamapāraṃ disvā bhāyeyya, dandhāyeyya na visaheyya otarituṃ. Kiṃ kāraṇā? Tiṇṇattā [ciṇṇattā (sī.
syā. pī.)] sakavisayassa,
mahantattā ca mahāsamuddassa. Evameva kho, mahārāja, ye te paccekabuddhā
sayambhuno anācariyakā ekacārino khaggavisāṇakappā sakavisaye
parisuddhavimalacittā, tesaṃ taṃ cittaṃ sakavisaye lahukaṃ uppajjati lahukaṃ pavattati, sabbaññubuddhabhūmīsu
garukaṃ uppajjati dandhaṃ pavattati. Kiṃ kāraṇā? Parisuddhattā sakavisaye
mahantattā sabbaññubuddhavisayassa, idaṃ chaṭṭhaṃ cittaṃ.
6. Ở đây, có loại tâm thứ
sáu này đạt được sự xếp loại. Tâu đại vương, những người nào là Phật Độc Giác,
bậc tự chủ, không thầy, độc hành tợ như sừng tê giác, có tâm đã được trong sạch
không còn bợn nhơ ở phạm vi của mình, tâm ấy của những người ấy sanh lên một
cách nhẹ nhàng, vận hành một cách nhẹ nhàng ở phạm vi của mình, sanh lên một
cách trì trệ, vận hành một cách chậm chạp ở cảnh giới của vị Phật Toàn Tri. Vì
lý do gì? Vì tính chất đã được trong sạch ở phạm vi của mình, vì tính chất vĩ đại
ở phạm vi của vị Phật Toàn Tri.
Tâu đại vương, giống như
người nam có thể băng qua con sông nhỏ thuộc phạm vi của mình vào ban đêm lẫn
ban ngày, theo như ước muốn, không bị hãi sợ, nhưng sau đó khi nhìn thấy đại
dương sâu thẳm, mênh mông, không thể ước lượng, không có bờ bên kia, có thể hãi
sợ, có thể ngần ngại, không dám vượt qua. Vì lý do gì? Vì tính chất đã được
quen thuộc ở phạm vi của mình, vì tính chất vĩ đại của đại dương. Tâu đại
vương, tương tợ y như thế những người nào là Phật Độc Giác, bậc tự chủ, không
thầy, độc hành tợ như sừng tê giác, có tâm đã được trong sạch không còn bợn nhơ
ở phạm vi của mình, tâm ấy của những người ấy sanh lên một cách nhẹ nhàng, vận
hành một cách nhẹ nhàng ở phạm vi của mình, sanh lên một cách trì trệ, vận hành
một cách chậm chạp ở cảnh giới của vị Phật Toàn Tri. Vì lý do gì? Vì tính chất
đã được trong sạch ở phạm vi của mình, vì tính chất vĩ đại ở phạm vi của vị Phật
Toàn Tri. Đây là loại tâm thứ sáu.
‘‘Tatridaṃ sattamaṃ cittaṃ
vibhattamāpajjati – ye te, mahārāja, sammāsambuddhā sabbaññuno dasabaladharā
catuvesārajjavisāradā aṭṭhārasahi buddhadhammehi samannāgatā anantajinā anāvaraṇañāṇā,
tesaṃ taṃ cittaṃ sabbattha lahukaṃ uppajjati lahukaṃ pavattati. Kiṃ kāraṇā?
Sabbattha parisuddhattā. Api nu kho, mahārāja, nārācassa sudhotassa vimalassa
niggaṇṭhissa sukhumadhārassa ajimhassa avaṅkassa akuṭilassa daḷhacāpasamārūḷhassa
khomasukhume vā kappāsasukhume vā kambalasukhume vā balavanipātitassa
dandhāyitattaṃ vā lagganaṃ vā hotī’’ti? ‘‘Na hi, bhante, ‘‘kiṃ kāraṇā’’?
‘‘Sukhumattā vatthānaṃ sudhotattā nārācassa nipātassa ca balavattā’’ti , evameva kho, mahārāja,
ye te sammāsambuddhā sabbaññuno dasabaladharā catuvesārajjavisāradā aṭṭhārasahi
buddhadhammehi samannāgatā anantajinā anāvaraṇañāṇā, tesaṃ taṃ cittaṃ sabbattha
lahukaṃ uppajjati lahukaṃ pavattati. Kiṃ kāraṇā? Sabbattha parisuddhattā, idaṃ
sattamaṃ cittaṃ.
7. Ở đây, có loại tâm thứ
bảy này đạt được sự xếp loại. Tâu đại vương, những người nào là Phật Chánh Đẳng
Giác, đấng Toàn Tri, bậc nắm giữ mười Lực, có sự tự tin ở bốn pháp tự tin, hội
đủ mười tám pháp của vị Phật, là đấng Chiến Thắng vô biên, có trí không bị che
lấp, tâm ấy của những người ấy sanh lên một cách nhẹ nhàng, vận hành một cách
nhẹ nhàng ở mọi nơi. Vì lý do gì? Vì tính chất đã được trong sạch ở mọi nơi.
Tâu đại vương, phải chăng có sự vụng về hoặc sự vướng víu của mũi tên khéo được
làm sạch sẽ, không bợn nhơ, không có mắc mứu, có thân mềm mại, không bị uốn,
không bị cong, không bị quẹo, được đặt lên cây cung vững chãi, được bắn ra bởi
người có sức mạnh vào tấm vải gai mềm, lớp gòn mềm, tấm len mềm?”
“Thưa ngài, không có.”
“Vì lý do gì?”
“Vì tính chất mềm mại của
những tấm vải, vì tính chất được làm sạch sẽ của mũi tên, và tính chất mạnh mẽ
của phát bắn ra.”
“Tâu đại vương, tương tợ
y như thế những người nào là Phật Chánh Đẳng Giác, đấng Toàn Tri, bậc nắm giữ
mười Lực, có sự tự tin ở bốn pháp tự tin, hội đủ mười tám pháp của vị Phật, là
đấng Chiến Thắng vô biên, có trí không bị che lấp, tâm ấy của những người ấy
sanh lên một cách nhẹ nhàng, vận hành một cách nhẹ nhàng ở mọi nơi. Vì lý do
gì? Vì tính chất đã được trong sạch ở mọi nơi. Đây là loại tâm thứ bảy.
‘‘Tatra, mahārāja, yadidaṃ
sabbaññubuddhānaṃ cittaṃ, taṃ channampi cittānaṃ gaṇanaṃ atikkamitvā asaṅkhyeyyena
guṇena parisuddhañca lahukañca. Yasmā ca bhagavato cittaṃ parisuddhañca lahukañca,
tasmā, mahārāja, bhagavā yamakapāṭihīraṃ dasseti. Yamakapāṭihīre, mahārāja,
ñātabbaṃ buddhānaṃ bhagavantānaṃ cittaṃ evaṃ lahuparivattanti, na tattha sakkā
uttariṃ kāraṇaṃ vattuṃ, tepi, mahārāja, pāṭihīrā sabbaññubuddhānaṃ cittaṃ
upādāya gaṇanampi saṅkhampi kalampi kalabhāgampi na upenti, āvajjanapaṭibaddhaṃ,
mahārāja, bhagavato sabbaññutañāṇaṃ, āvajjetvā yadicchakaṃ jānāti.
‘‘Yathā, mahārāja, puriso hatthe ṭhapitaṃ
yaṃ kiñci dutiye hatthe ṭhapeyya vivaṭena mukhena vācaṃ nicchāreyya, mukhagataṃ
bhojanaṃ gileyya, ummīletvā vā nimīleyya, nimīletvā vā ummīleyya, samiñjitaṃ vā
bāhaṃ pasāreyya, pasāritaṃ vā bāhaṃ samiñjeyya, cirataraṃ etaṃ, mahārāja,
lahutaraṃ bhagavato sabbaññutañāṇaṃ, lahutaraṃ āvajjanaṃ, āvajjetvā yadicchakaṃ
jānāti, āvajjanavikalamattakena na tāvatā buddhā bhagavanto
asabbaññuno nāma hontī’’ti.
8. Tâu đại vương, ở đây
tâm này của chư Phật Toàn Tri vượt trội sự tính đếm của luôn cả sáu loại tâm,
được trong sạch và nhẹ nhàng với đức tính vô số kể. Và tâu đại vương, bởi vì
tâm của đức Thế Tôn được trong sạch và nhẹ nhàng nên đức Thế Tôn mới phô diễn
song thông. Tâu đại vương, về song thông nên được biết rằng: ‘Tâm của chư Phật
Thế Tôn có sự chuyển dịch nhẹ nhàng như thế.’
Trong trường hợp ấy,
không thể nào nói hơn nữa về lý do. Tâu đại vương, những loại thần thông có
liên quan đến tâm của chư Phật Toàn Tri ấy đều không thể áp đặt phép đếm, phép
tính, sự chia chẻ, và luôn cả sự tách phần. Tâu đại vương, trí Toàn Tri của đức
Thế Tôn được gắn liền vào sự hướng tâm, sau khi hướng tâm thì biết được theo
như ý muốn. Tâu đại vương, giống như người nam có thể đặt xuống ở bàn tay thứ
nhì bất cứ vật gì đã được đặt xuống ở bàn tay (thứ nhất), có thể phát ra lời
nói bằng miệng đã được mở ra, có thể nuốt vào thức ăn đã đưa vào miệng, có thể
mở mắt ra rồi nhắm lại, hoặc có thể nhắm mắt lại rồi mở ra, có thể duỗi ra cánh
tay đã được co lại, hoặc có thể co lại cánh tay đã được duỗi ra, việc ấy còn chậm
hơn, tâu đại vương, trí Toàn Tri của đức Thế Tôn là nhẹ nhàng hơn, sự hướng tâm
là nhẹ nhàng hơn. Sau khi hướng tâm thì biết được theo như ý muốn. Dầu cho
không có sự hướng tâm, chư Phật Thế Tôn ấy vẫn không gọi là không có Toàn Tri”
‘‘Āvajjanampi , bhante nāgasena,
pariyesanāya kātabbaṃ, iṅgha maṃ tattha kāraṇena saññāpehī’’ti. ‘‘Yathā, mahārāja,
purisassa aḍḍhassa mahaddhanassa mahābhogassa pahūtajātarūparajatassa
pahūtavittūpakaraṇassa pahūtadhanadhaññassa sālivīhiyavataṇḍulatilamuggamāsapubbaṇṇāparaṇṇasappitelanavanītakhīradadhimadhuguḷaphāṇitā ca khaḷopikumbhipīṭharakoṭṭhabhājanagatā
bhaveyyuṃ, tassa ca purisassa pāhunako āgaccheyya bhattāraho bhattābhikaṅkhī,
tassa ca gehe yaṃ randhaṃ bhojanaṃ, taṃ pariniṭṭhitaṃ bhaveyya, kumbhito taṇḍule
nīharitvā bhojanaṃ randheyya, api ca kho so, mahārāja, tāvatakena
bhojanavekallamattakena adhano nāma kapaṇo nāma bhaveyyā’’ti? ‘‘Na hi, bhante,
cakkavattirañño gharepi, bhante, akāle bhojanavekallaṃ hoti, kiṃ pana
gahapatikassā’’ti? ‘‘Evameva kho, mahārāja, tathāgatassa āvajjanavikalamattakaṃ
sabbaññutañāṇaṃ āvajjetvā yadicchakaṃ jānāti.
9. “Thưa ngài Nāgasena,
sự hướng tâm là được thực hiện do sự suy tầm, vậy thì ngài hãy giúp cho trẫm hiểu
trường hợp ấy bằng lý lẽ.”
“Tâu đại vương, giống
như người giàu thì có nhiều tài sản, có nhiều của cải, có dồi dào vàng bạc và vật
sở hữu dự phòng, có dồi dào tài sản và ngũ cốc là gạo thơm, thóc, lúa mạch, gạo
xay, mè, đậu mugga, đậu māsa, các loại hạt chưa chế biến hoặc các loại khác nữa,
bơ lỏng, dầu ăn, bơ đặc, sữa tươi, sữa đông, mật ong, mật đường, và đường mía
được chứa ở bình, chum, lu, hũ, chậu, và có người khách, là người xứng đáng để
mời ăn và có sự mong mỏi về bữa ăn, đi đến với người ấy, nhưng tại nhà của người
ấy thức ăn nấu chín là đã hết sạch thì có thể đem gạo từ chum lại rồi nấu chín.
Tâu đại vương, phải chăng do sự việc thiếu hụt thức ăn trong chốc lát mà người ấy
trở thành người không có tài sản và nghèo khó?”
“Thưa ngài, không đúng.
Thưa ngài, ngay cả ở nhà của đức Chuyển Luân Vương cũng có sự thiếu hụt thức ăn
vào lúc không đúng thời điểm, thì có điều gì đối với gia chủ.”
“Tâu đại vương, tương tợ
y như thế là trí Toàn Tri của đức Như Lai trong trường hợp không có sự hướng
tâm, sau khi hướng tâm thì biết được theo như ý muốn.
‘‘Yathā vā pana, mahārāja, rukkho
assa phalito oṇatavinato piṇḍibhārabharito, na kiñci tattha patitaṃ phalaṃ
bhaveyya, api nu kho so, mahārāja, rukkho tāvatakena
patitaphalavekallamattakena aphalo nāma bhaveyyā’’ti? ‘‘Na hi, bhante, patanapaṭibaddhāni
tāni rukkhaphalāni, patite yadicchakaṃ labhatī’’ti. ‘‘Evameva kho, mahārāja,
tathāgatassa āvajjanapaṭibaddhaṃ sabbaññutañāṇaṃ āvajjetvā yadicchakaṃ
jānātī’’ti.
‘‘Bhante nāgasena, āvajjetvā
āvajjetvā buddho yadicchakaṃ jānātī’’ti? ‘‘Āma, mahārāja, bhagavā āvajjetvā
āvajjetvā yadicchakaṃ jānātī’’ti.
‘‘Yathā, mahārāja, cakkavattī rājā
yadā cakkaratanaṃ sarati ‘upetu me cakkaratana’nti, sarite cakkaratanaṃ upeti,
evameva kho, mahārāja, tathāgato āvajjetvā āvajjetvā yadicchakaṃ jānātī’’ti.
‘‘Daḷhaṃ, bhante nāgasena, kāraṇaṃ, buddho sabbaññū, sampaṭicchāma buddho
sabbaññū’’ti.
10. Tâu đại vương, hơn nữa
giống như cây cối thì có thể kết trái, bị oằn xuống, bị uốn cong, bị mang nặng
trĩu bởi những chùm trái, và không có trái nào bị rơi rụng ở tại nơi ấy. Tâu đại
vương, phải chăng do sự việc không có trái cây rơi rụng trong chốc lát mà cây ấy
trở thành không có trái cây?”
“Thưa ngài, không đúng.
Những trái cây ấy được gắn liền với sự rơi rụng. Khi được rơi rụng thì đạt được
theo như ý muốn.”
“Tâu đại vương, tương tợ
y như thế là trí Toàn Tri của đức Như Lai trong trường hợp không có sự hướng
tâm, sau khi hướng tâm thì biết được theo như ý muốn.”
“Thưa ngài Nāgasena, có
phải sau khi hướng tâm thì đức Phật biết theo như ý muốn?”
“Tâu đại vương, đúng vậy.
Đức Thế Tôn sau khi lần lượt hướng tâm thì biết được theo như ý muốn. Tâu đại
vương, giống như đức Chuyển Luân Vương khi nào nhớ đến bánh xe báu (khởi ý rằng):
‘Bánh xe báu hãy đến với ta,’ trong khi nhớ đi nhớ lại thì bánh xe báu hiện đến.
Tâu đại vương, tương tợ y như thế, đức Như Lai sau khi lần lượt hướng tâm thì
biết được theo như ý muốn.”
“Thưa ngài Nāgasena, lý
do là vững chãi. Đức Phật là đấng Toàn Tri. Chúng tôi chấp nhận đức Phật là đấng
Toàn Tri.”