Chủ Nhật, 15 tháng 9, 2013
PHƯỚC CÚNG DƯỜNG KHÔNG PHẢI DO THƯỞNG PHẠT
Rājā āha ‘‘bhante
nāgasena, putto vā pituno vaṇṇaṃ bhāsati, pitā vā puttassa vaṇṇaṃ bhāsati, na cetaṃ
kāraṇaṃ paravādānaṃ niggahāya, pasādappakāsanaṃ nāmetaṃ, iṅgha me tvaṃ tattha
kāraṇaṃ sammā brūhi sakavādassa patiṭṭhāpanāya diṭṭhijālaviniveṭhanāyā’’ti.
Thero āha
‘‘parinibbuto, mahārāja, bhagavā, na ca bhagavā pūjaṃ sādiyati, asādiyantasseva
tathāgatassa devamanussā dhāturatanaṃ vatthuṃ karitvā tathāgatassa ñāṇaratanārammaṇena
sammāpaṭipattiṃ sevantā tisso sampattiyo paṭilabhanti.
‘‘Yathā , mahārāja,
mahatimahāaggikkhandho pajjalitvā nibbāyeyya, api nu kho so, mahārāja,
mahāaggikkhandho sādiyati tiṇakaṭṭhupādāna’’nti? ‘‘Jalamānopi so, bhante,
mahāaggikkhandho tiṇakaṭṭhupādānaṃ na sādiyati, kiṃ pana nibbuto upasanto
acetano sādiyati? ‘‘Tasmiṃ pana, mahārāja, aggikkhandhe uparate upasante loke
aggi suñño hotī’’ti. ‘‘Na hi, bhante, kaṭṭhaṃ aggissa vatthu hoti upādānaṃ, ye
keci manussā aggikāmā, te attano thāmabalavīriyena paccattapurisakārena kaṭṭhaṃ
manthayitvā [madditvā (ka.)] aggiṃ nibbattetvā tena agginā aggikaraṇīyāni kammāni
karontī’’ti. ‘‘Tena hi, mahārāja, titthiyānaṃ vacanaṃ micchā bhavati
‘asādiyantassa kato adhikāro vañjho bhavati aphalo’ti.
‘‘Yathā, mahārāja,
mahatimahāaggikkhandho pajjali, evameva bhagavā dasasahassiyā[dasasahassimhi (sī. pī. ka.)] lokadhātuyā buddhasiriyā pajjali. Yathā, mahārāja,
mahatimahāaggikkhandho pajjalitvā nibbuto, evameva bhagavā dasasahassiyā
lokadhātuyā buddhasiriyā pajjalitvā anupādisesāya nibbānadhātuyā parinibbuto.
Yathā, mahārāja, nibbuto aggikkhandho tiṇakaṭṭhupādānaṃ na sādiyati, evameva
kho lokahitassa sādiyanā pahīnā upasantā. Yathā, mahārāja, manussā nibbute
aggikkhandhe anupādāne attano thāmabalavīriyena paccattapurisakārena kaṭṭhaṃ
manthayitvā aggiṃ nibbattetvā tena agginā aggikaraṇīyāni kammāni karonti,
evameva kho devamanussā tathāgatassa parinibbutassa asādiyantasseva
dhāturatanaṃ vatthuṃ karitvā tathāgatassa ñāṇaratanārammaṇena sammāpaṭipattiṃ
sevantā tisso sampattiyo paṭilabhanti, imināpi, mahārāja, kāraṇena tathāgatassa
parinibbutassa asādiyantasseva kato adhikāro avañjho bhavati saphalo.
2. Đức vua đã
nói rằng: “Thưa ngài Nāgasena, con nói lời ca ngợi cha, cha nói lời khen ngợi
con, điều này không phải là lý do để phản bác lại các học thuyết khác. Điều này
gọi là lời tuyên bố về niềm tin. Vậy xin ngài hãy nói rõ ràng cho trẫm lý do về
trường hợp ấy nhằm thiết lập học thuyết của mình và nhằm việc tháo tung mạng lưới
tà kiến.”
Vị trưởng lão đã
nói rằng: “Tâu đại vương, đức Thế Tôn đã đạt Niết Bàn, và đức Thế Tôn không ưng
thuận sự cúng dường. Chư Thiên và nhân loại, trong khi thực hiện nền đất cho
báu vật xá-lợi của đức Như Lai dẫu cho Ngài không ưng thuận và trong khi đeo đuổi
pháp hành đúng đắn với đề mục là báu vật trí tuệ của đức Như Lai, vẫn đạt được
ba sự thành tựu.[1] Tâu đại vương, giống như khối lửa lớn bốc cháy rồi tắt ngấm,
tâu đại vương phải chăng khối lửa ấy cũng ưng thuận việc bám víu vào cỏ và củi?”
“Thưa ngài, ngay
cả trong khi đang cháy, khối lửa lớn ấy cũng không ưng thuận việc bám víu vào cỏ
và củi, vậy thì việc gì lại ưng thuận khi đã tắt ngấm, được yên lặng, không còn
tâm thức?”
“Tâu đại vương,
phải chăng khi khối lửa lớn ấy đã ngừng nghỉ, được yên lặng, thì không còn ngọn
lửa ở thế gian?”
“Thưa ngài,
không đúng. Thưa ngài, củi là nền tảng, là sự bám víu của ngọn lửa. Thưa ngài,
bất cứ những người nào có ước muốn về lửa, những người ấy xoay tròn nhánh củi bằng
thể lực, sức mạnh, và sự nỗ lực của bản thân, do việc làm của mỗi cá nhân thì
làm phát sanh ngọn lửa, rồi với ngọn lửa ấy làm các công việc được làm bởi ngọn
lửa.”
“Tâu đại vương,
chính vì điều ấy lời nói của các giáo chủ tà giáo: ‘Hành động hướng thượng được
làm đến người không ưng thuận là vô ích, không có quả báu’ là sai trái. Tâu đại
vương, giống như khối lửa lớn đã bốc cháy, tương tợ y như thế đức Thế Tôn đã bốc
cháy với vẻ rực rỡ của vị Phật trong mười ngàn thế giới. Tâu đại vương, giống
như khối lửa lớn bốc cháy rồi tắt ngấm, tương tợ y như thế đức Thế Tôn sau khi
bốc cháy với vẻ rực rỡ của vị Phật trong mười ngàn thế giới rồi đã Viên Tịch Niết
Bàn ở cảnh giới Niết Bàn không còn dư sót. Tâu đại vương, giống như khối lửa lớn
đã tắt ngấm thì không còn ưng thuận việc bám víu vào cỏ và củi, tương tợ y như
thế sự ưng thuận của đấng Phúc Lợi Thế Gian là đã được dứt bỏ, được yên lặng.
Tâu đại vương, giống như khi khối lửa đã tắt ngấm, không còn bám víu, những người
xoay tròn nhánh củi bằng thể lực, sức mạnh, và sự nỗ lực của bản thân, do việc
làm của mỗi cá nhân thì làm phát sanh ngọn lửa, rồi với ngọn lửa ấy làm các
công việc được làm bởi ngọn lửa, tương tợ y như thế chư Thiên và nhân loại sau
khi thực hiện nền đất cho báu vật xá-lợi của đức Như Lai dẫu cho Ngài đã Viên Tịch
Niết Bàn không còn ưng thuận, và trong khi đeo đuổi pháp hành đúng đắn với đề mục
là báu vật trí tuệ của đức Như Lai, vẫn đạt được ba sự thành tựu. Tâu đại
vương, cũng vì lý do này dẫu cho đức Như Lai đã Viên Tịch Niết Bàn không còn
ưng thuận, hành động hướng thượng được làm đến Ngài là không vô ích, có quả
báu.”