Thứ Bảy, 24 tháng 8, 2013
Bài học ngày 25-08-2013
NGỪA BỆNH HƠN TRỊ BỆNH
3.
Dukkhappahānavāyamapañho
3. Rājā āha
‘‘bhante nāgasena, kiṃ tumhe atītassa dukkhassa pahānāya vāyamathā’’ti? ‘‘Na hi,
mahārājā’’ti. ‘‘Kiṃ pana, bhante, anāgatassa dukkhassa pahānāya vāyamathā’’ti?
‘‘Na hi, mahārājā’’ti. ‘‘Kiṃ pana paccuppannassa dukkhassa pahānāya vāyamathā’’ti? ‘‘Na hi, mahārājā’’ti. ‘‘Yadi tumhe na
atītassa dukkhassa pahānāya vāyamatha, na anāgatassa dukkhassa pahānāya
vāyamatha, na paccuppannassa dukkhassa pahānāya vāyamatha, atha kimatthāya
vāyamathā’’ti. Thero āha ‘kinti, mahārāja, idañca dukkhaṃ nirujjheyya, aññañca dukkhaṃ nuppajjeyyā’ti etadatthāya
vāyamāmā’’ti.
‘‘Atthi pana te, bhante nāgasena,
anāgataṃ dukkha’’nti?
‘‘Natthi [kathā. 828, 829 passitabbaṃ], mahārājā’’ti
‘‘tumhe kho, bhante nāgasena, atipaṇḍitā, ye tumhe asantānaṃ anāgatānaṃ dukkhānaṃ pahānāya vāyamathā’’ti? ‘‘Atthi pana te, mahārāja, keci paṭirājāno paccatthikā paccāmittā
paccupaṭṭhitā
hontī’’ti? ‘‘Āma, bhante, atthī’’ti. ‘‘Kiṃnu kho, mahārāja, tadā tumhe parikhaṃ khaṇāpeyyātha, pākāraṃ cināpeyyātha gopuraṃ kārāpeyyātha, aṭṭālakaṃ kārāpeyyātha, dhaññaṃ atiharāpeyyāthā’’ti? ‘‘Na hi,
bhante, paṭikacceva taṃ paṭiyattaṃ hotī’’ti. ‘‘Kiṃ tumhe, mahārāja, tadā hatthismiṃ sikkheyyātha, assasmiṃ sikkheyyātha, rathasmiṃ sikkheyyātha, dhanusmiṃ sikkheyyātha, tharusmiṃ sikkheyyāthā’’ti? ‘‘Na hi,
bhante, paṭikacceva taṃ sikkhitaṃ hotī’’ti. ‘‘Kissatthāyā’’ti?
‘‘Anāgatānaṃ, bhante,
bhayānaṃ paṭibāhanatthāyā’’ti. ‘‘Kiṃ nu kho, mahārāja, atthi anāgataṃ bhaya’’nti? ‘‘Natthi,
bhante’’ti . ‘‘Tumhe
ca kho, mahārāja, atipaṇḍitā, ye tumhe asantānaṃ anāgatānaṃ bhayānaṃ paṭibāhanatthāya paṭiyādethā’’ti.
‘‘Bhiyyo opammaṃ karohīti. ‘‘Taṃ kiṃ maññasi, mahārāja, yadā tvaṃ pipāsito bhaveyyāsi, tadā tvaṃ udapānaṃ khaṇāpeyyāsi, pokkharaṇiṃ khaṇāpeyyāsi, taḷākaṃ khaṇāpeyyāsi ‘pānīyaṃ pivissāmī’’’ti? ‘‘Na hi, bhante, paṭikacceva taṃ paṭiyattaṃ hotī’’ti. ‘‘Kissatthāyā’’ti?
‘‘Anāgatānaṃ, bhante,
pipāsānaṃ paṭibāhanatthāya paṭiyattaṃ hotī’’ti. ‘‘Atthi pana,
mahārāja, anāgatā pipāsā’’ti? ‘‘Natthi, bhante’’ti. ‘‘Tumhe kho, mahārāja,
atipaṇḍitā , ye tumhe asantānaṃ anāgatānaṃ pipāsānaṃ paṭibāhanatthāya taṃ paṭiyādethā’’ti.
‘‘Bhiyyo
opammaṃ karohī’’ti.
‘‘Taṃ kiṃ maññasi, mahārāja, yadā tvaṃ bubhukkhito bhaveyyāsi, tadā
tvaṃ khettaṃ kasāpeyyāsi, sāliṃ vapāpeyyāsi ‘bhattaṃ bhuñjissāmī’’’ti? ‘‘Na hi,
bhante, paṭikacceva taṃ paṭiyattaṃ hotī’’ti. ‘‘Kissatthāyā’’ti.
‘‘Anāgatānaṃ, bhante,
bubhukkhānaṃ paṭibāhanatthāyā’’ti. ‘‘Atthi pana,
mahārāja, anāgatā bubhukkhā’’ti? ‘‘Natthi, bhante’’ti. ‘‘Tumhe kho, mahārāja, atipaṇḍitā, ye tumhe asantānaṃ anāgatānaṃ bubhukkhānaṃ paṭibāhanatthāya paṭiyādethā’’ti.
‘‘Kallosi,
bhante nāgasenā’’ti.
Dukkhappahānavāyamapañho tatiyo
3. Đức
vua đã nói rằng: “Thưa ngài Nāgasena, có phải ngài tinh tấn nhằm loại bỏ khổ thuộc
quá khứ?”
“Tâu đại
vương, không phải.”
“Vậy có
phải ngài tinh tấn nhằm loại bỏ khổ thuộc vị lai?”
“Tâu đại
vương, không phải.”
“Vậy có
phải ngài tinh tấn nhằm loại bỏ khổ thuộc hiện tại?”
“Tâu đại
vương, không phải.”
“Nếu
ngài không tinh tấn nhằm loại bỏ khổ thuộc quá khứ, không tinh tấn nhằm loại bỏ
khổ thuộc vị lai, không tinh tấn nhằm loại bỏ khổ thuộc hiện tại, vậy ngài tinh
tấn nhằm mục đích gì?”
Vị
trưởng lão đã nói rằng: “Tâu đại vương, làm cách nào để cho khổ này diệt, và
khổ khác không thể sanh lên? Chúng tôi tinh tấn nhằm mục đích này.”
“Thưa
ngài Nāgasena, vậy (bây giờ) có khổ thuộc vị lai không?”
“Tâu đại
vương, không có.”
“Thưa
ngài Nāgasena, ngài quả là quá sáng trí khi ngài tinh tấn nhằm loại bỏ các khổ
không hiện hữu!”
“Tâu đại
vương, vậy có những vị vua đối nghịch, những kẻ thù đối nghịch, những bạn bè
đối nghịch chống đối lại ngài không?”
“Thưa
ngài, đúng vậy. Có.”
“Tâu đại
vương, phải chăng khi ấy ngài mới bảo đào hào, mới bảo đắp lũy, mới bảo xây
cổng thành, mới bảo làm vọng gác, mới bảo đem lại thóc?”
“Thưa
ngài, không đúng. Việc ấy là được chuẩn bị trước.”
“Tâu đại
vương, phải chăng khi ấy ngài mới rèn luyện về voi, mới rèn luyện về ngựa, mới
rèn luyện về xe, mới rèn luyện về cung, mới rèn luyện về gươm?”
“Thưa
ngài, không đúng. Việc ấy là được chuẩn bị trước.”
“Nhằm
mục đích gì?”
“Thưa
ngài, nhằm mục đích ngăn chặn các nỗi lo sợ thuộc vị lai.”
“Tâu đại
vương, phải chăng (bây giờ) có nỗi lo sợ thuộc vị lai?”
“Thưa
ngài, không có.”
“Tâu đại
vương, đại vương quả là quá sáng trí khi ngài chuẩn bị nhằm mục đích ngăn chặn
các nỗi lo sợ thuộc vị lai!”
“Xin
ngài cho thêm ví dụ.”
“Tâu đại
vương, đại vương nghĩ gì về điều này? Phải chăng khi nào ngài bị khát thì khi
ấy ngài mới bảo đào giếng nước, mới bảo đào ao nước, mới bảo đào hồ nước (nghĩ
rằng): ‘Ta sẽ uống nước’?”
“Thưa
ngài, không đúng. Việc ấy là được chuẩn bị trước.”
“Nhằm
mục đích gì?”
“Thưa
ngài, được chuẩn bị nhằm mục đích ngăn chặn các sự khát nước còn chưa đến.”
“Tâu đại
vương, phải chăng (bây giờ) có sự khát nước ở vị lai?”
“Thưa
ngài, không có.”
“Tâu đại
vương, đại vương quả là quá sáng trí khi ngài chuẩn bị việc ấy nhằm mục đích
ngăn chặn các sự khát nước ở vị lai!”
“Xin
ngài cho thêm ví dụ.”
“Tâu đại
vương, đại vương nghĩ gì về điều này? Phải chăng khi nào ngài thèm ăn thì khi
ấy ngài mới bảo cày ruộng, mới bảo trồng lúa sāli (nghĩ rằng): ‘Ta sẽ thọ dụng
bữa ăn’?”
“Thưa
ngài, không đúng. Việc ấy là được chuẩn bị trước.”
“Nhằm
mục đích gì?”
“Thưa
ngài, được chuẩn bị nhằm mục đích ngăn chặn các sự thèm ăn ở vị lai.”
“Tâu đại
vương, phải chăng (bây giờ) có sự thèm ăn ở vị lai?”
“Thưa
ngài, không có.”
“Tâu đại
vương, đại vương quả là quá sáng trí khi ngài chuẩn bị việc ấy nhằm mục đích
ngăn chặn các sự thèm ăn không hiện hữu ở vị lai!”
“Thưa
ngài Nāgasena, ngài thật khôn khéo.”