Thứ Sáu, 23 tháng 8, 2013

Bài học ngày 24-08-2013


TÍNH CÁCH DUNG HỢP CỦA NGHIỆP LỰC

2. Rājā āha ‘‘bhante nāgasena, tumhe eta bhaatha ‘yo vassasata akusala kareyya, maraakāle ca eka buddhagua sati pailabheyya, so devesu uppajjeyyā’ti eta na saddahāmi, evañca pana vadetha ‘etena pāātipātena niraye uppajjeyyā’ti etampi na saddahāmī’’ti.
‘‘Ta ki maññasi, mahārāja, khuddakopi pāsāo vinā nāvāya udake uppilaveyyā’’ti . ‘‘Na hi, bhante’’ti. ‘‘Ki nu kho, mahārāja, vāhasatampi pāsāāna nāvāya āropita udake uppilaveyyā’’ti? ‘‘Āma, bhante’’ti. ‘‘Yathā, mahārāja, nāvā, eva kusalāni kammāni daṭṭhabbānī’’ti.
‘‘Kallosi, bhante nāgasenā’’ti. 
2. Đức vua đã nói rằng: “Thưa ngài Nāgasena, ngài nói như vầy: ‘Người nào làm việc bất thiện trong một trăm năm, và vào lúc chết đạt được một niệm tưởng đến đức Phật thì người ấy có thể sanh ở giữa chư Thiên.’ Trẫm không tin lời nói này. Hơn nữa, ngài còn nói như vầy: ‘Có thể đọa vào địa ngục do một lần giết hại mạng sống.’ Trẫm cũng không tin lời nói này.”
“Tâu đại vương, đại vương nghĩ gì về điều này? Không có chiếc thuyền, hòn đá dầu là nhỏ có thể nổi ở nước không?” 
“Thưa ngài, không.”
“Tâu đại vương, phải chăng một trăm xe đá được chất lên thuyền thì có thể nổi ở nước?” 
“Thưa ngài, đúng vậy. Có thể nổi.”
“Tâu đại vương, chiếc thuyền là như thế nào thì các nghiệp thiện nên được xem xét như vậy.”
“Thưa ngài Nāgasena, ngài thật khôn khéo.”